QUYẾT ĐỊNH
CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ SỐ 187/1999/QĐ-TTG NGÀY 16 THÁNG 9 NĂM 1999 VỀ ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ LÂM TRƯỜNG QUỐC DOANH
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Căn cứ Luật Doanh nghiệp Nhà nước ngày 30 tháng 4 năm 1995;
Căn cứ Luật Bảo vệ và Phát triển rừng ngày 19 tháng 8 năm 1991;
Căn cứ Luật Đất đai ngày 14 tháng 7 năm 1993 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai ngày 2 tháng 12 năm 1998;
Căn cứ quy định về sắp xếp lại tổ chức và đổi mới cơ chế quản lý các doanh nghiệp nông nghiệp Nhà nước ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 02 tháng 3 năm 1993 của Chính phủ.
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và ý kiến của các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Lao động – Thương binh và Xã hội, Ban Tổ chức – Cán bộ Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Tổng cục trưởng Tổng cục Địa chính,
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1. Mục tiêu:
Đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý lâm trường quốc doanh nhằm mục tiêu: nâng cao hiệu quả sản xuất – kinh doanh của lâm trường, làm tốt vai trò nòng cốt trong sản xuất lâm nghiệp, làm trung tâm dịch vụ vật tư, kỹ thuật, chế biến và tiêu thụ sản phẩm cho các tổ chức hộ gia đình và cá nhân sản xuất lâm, nông nghiệp, góp phần bảo vệ và phát triển rừng, phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn.
Điều 2. Nguyên tắc đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý lâm trường quốc doanh:
1. Tiếp tục duy trì, củng cố các lâm trường quốc doanh ở những vùng đất lâm nghiệp tập trung quy mô lớn, cần Nhà nước trực tiếp quản lý và đầu tư mà các thành phần kinh tế khác khó có khả năng thực hiện; ở vùng sâu, vùng xa để làm hạt nhân phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh trên địa bàn.
2. Bảo đảm cho lâm trường quốc doanh phát huy được quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh; người lao động lâm nghiệp thật sự là người chủ cụ thể của từng khu rừng nhận khoán, xoá bỏ bao cấp của Nhà nước trong các hoạt động kinh doanh của lâm trường.
3. Bảo đảm giải quyết hài hoà mối quan hệ lợi ích giữa người lao động với Nhà nước và lâm trường, giữa lâm trường với địa phương.
Điều 3. Tổ chức sắp xếp lại các lâm trường quốc doanh hiện có:
1. Các lâm trường quốc doanh được duy trì, củng cố để hoạt động theo cơ chế kinh doanh:
a) Những lâm trường quốc doanh đang quản lý rừng tự nhiên là rừng sản xuất và phòng hộ ít xung yếu.
b) Những lâm trường quốc doanh trồng rừng nguyên liệu công nghiệp.
Nhiệm vụ chính của các lâm trường quốc doanh là gây trồng, bảo vệ nuôi dưỡng rừng, khai thác chế biến lâm sản, cung ứng nguyên liệu cho các cơ sở chế biến công nghiệp và nhu cầu tiêu dùng khác của nền kinh tế quốc dân.
Ngoài các nhiệm vụ chính, các lâm trường được kinh doanh tổng hợp nông, lâm, ngư, công nghiệp và dịch vụ để sử dụng có hiệu quả tiềm năng lao động, đất đai và vốn rừng được giao.
Đối với diện tích rừng phòng hộ rất xung yếu và xung yếu phân bố xen kẽ với rừng sản xuất và rừng phòng hộ ít xung yếu của lâm trường, có diện tích chưa đến 5.000 ha để thành lập Ban quản lý rừng phòng hộ thì tiếp tục giao cho lâm trường quốc doanh quản lý theo quy chế rừng phòng hộ.
Việc bảo vệ, gây trồng rừng phòng hộ ở vùng rất xung yếu và xung yếu được coi là hoạt động công ích, do lâm trường thực hiện theo nhiệm vụ Nhà nước giao.
2. Chuyển đổi các lâm trường quốc doanh thành Ban quản lý rừng phòng hộ
Chuyển đổi lâm trường quốc doanh có 5.000 ha trở lên hoặc có trên 70% diện tích đất lâm nghiệp đang quản lý thuộc quy hoạch vùng phòng hộ xung yếu và rất xung yếu (được xác lập theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ hoặc của Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố ) thành Ban quản lý rừng phòng hộ hoạt động theo cơ chế đơn vị sự nghiệp kinh tế có thu. Diện tích rừng sản xuất và đất lâm nghiệp xen kẽ với rừng phòng hộ cũng giao cho Ban quản lý gây trồng, bảo vệ, khai thác sử dụng, tạo nguồn thu cho ngân sách.
3. Chuyển đổi lâm trường quốc doanh sang loại hình tổ chức kinh doanh khác:
Các lâm trường quốc doanh đang gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, quản lý diện tích rừng và đất quy hoạch để gây trồng rừng sản xuất từ 1.000 ha trở xuống, phân bố xen kẽ với đất nông nghiệp và gần khu dân cư, thì chuyển đổi thành loại hình tổ chức kinh doanh thích hợp để dịch vụ cho sản xuất nông, lâm, công nghiệp.
Khi chuyển đổi, phải có phương án trình cấp có thẩm quyền phê duyệt để xác định nhu cầu đất sử dụng cho hoạt động của tổ chức mới, chuyển giao rừng và phần diện tích đất còn lại cho chính quyền địa phương để giao hoặc cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuê sử dụng theo quy định của pháp luật.
Điều 4. Quản lý, sử dụng rừng và đất lâm nghiệp:
1. Uỷ ban nhân dân các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương cùng với cơ quan chủ quản của các lâm trường (nếu có), rà soát lại diện tích đất và rừng của các lâm trường chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, làm rõ ranh giới trên bản đồ và trên thực địa phần đất giao cho lâm trường quản lý.
Đến hết năm 2000, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải hoàn thành việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gắn với giao rừng cho lâm trường quốc doanh dưới sự hướng dẫn của Tổng cục Địa chính và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Phần đất và rừng còn lại lâm trường chuyển giao lại cho chính quyền địa phương để giao hoặc cho các tổ chức, hộ gia đình cán bộ công nhân viên lâm trường, hộ nông dân trên địa bàn thuê, sử dụng theo quy định của pháp luật.
2. Giao quyền quản lý sử dụng rừng ổn định lâu dài cho lâm trường quốc doanh trên cơ sở quy hoạch ba loại rừng (đặc dụng, phòng hộ và sản xuất), phân loại rừng theo trạng thái, xác định rõ diện tích và chất lượng rừng cụ thể làm căn cứ để kiểm tra các lâm trường trong việc bảo vệ, phát triển rừng và sử dụng rừng theo quy chế hiện hành.
Trong quý I năm 2000, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phải ban hành quy định về trình tự, thủ tục giao và khoán rừng, phương pháp phân loại rừng, xác định chất lượng rừng khi giao và khoán để làm cơ sở chỉ đạo các cấp, các ngành thực hiện.
3. Đối với rừng sản xuất và phòng hộ ít xung yếu là rừng tự nhiên, lâm trường phải thực hiện các biện pháp kỹ thuật lâm sinh để nuôi dưỡng, làm giàu rừng, được phép khai thác, sử dụng rừng theo phương án điều chế rừng và thiết kế khai thác được ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt.
Hàng năm khi kế hoạch khai thác được duyệt, lâm trường phải cùng với bên nhận khoán (tổ chức, hộ gia đình, cá nhân) thống nhất kế hoạch khai thác và giám sát việc khai thác. Lâm trường được quyền tự tổ chức lực lượng khai thác, hoặc khoán cho đơn vị khác khai thác theo phương thức đấu thầu chi phí.
4. Đối với rừng sản xuất là rừng trồng, lâm trường được quyền quyết định thời điểm, phương thức khai thác và có kế hoạch tái tạo rừng sau khi khai thác. Lâm sản khai thác từ rừng trồng được tự do lưu thông trên thị trường.
5. Đối với rừng phòng hộ rất xung yếu và xung yếu là rừng tự nhiên, do lâm trường quản lý, lâm trường được khai thác chọn cây khô chết, cây đổ gẫy, cây sâu bệnh, cây cụt ngọn, cây già cỗi, cây ở nơi có mật độ quá dày, với cường độ tối đa 20% theo thiết kế khai thác được ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt.
Với rừng tre, nứa tự nhiên, khi độ che phủ đạt tới 80%, được phép khai thác với cường độ tối đa 20% theo thiết kế được ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt.
6. Đối với rừng phòng hộ xung yếu và rất xung yếu là rừng trồng bằng vốn ngân sách Nhà nước, lâm trường được phép khai thác cây phù trợ; tận thu lâm sản phụ.
Khi cây rừng chính đạt tiêu chuẩn khai thác thì lâm trường được phép khai thác theo luân kỳ, với cường độ không quá 10% diện tích đã gây trồng thành rừng theo phương thức chặt chọn, chặt theo băng, hay theo đám nhỏ có diện tích dưới 1 ha ở vùng xung yếu và dưới 0,5 ha ở vùng rất xung yếu.
Lâm trường phải có biện pháp tái tạo rừng trong vòng 12 tháng sau khi khai thác.
Điều 5. Chính sách lao động:
1. Hộ gia đình cán bộ công nhân viên lâm trường (bao gồm cả những người đang làm việc và những người nghỉ mất sức, nghỉ hưu) nếu cư trú hợp pháp trên địa bàn, chưa được cấp đất ở thì lâm trường đề nghị chính quyền địa phương giao và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở cho họ.
2. Lâm trường phối hợp với ủy ban nhân dân xã (phường, thị trấn) sở tại đề nghị ủy ban nhân dân huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giao và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sản xuất nông – lâm nghiệp cho các đối tượng thuộc hộ gia đình cán bộ công nhân viên lâm trường thuộc diện giao đất theo quy định tại Nghị định 64/CP ngày 27 tháng 9 năm 1993, Nghị định số 85/1999/NĐ-CP ngày 28 tháng 8 năm 1999 và Nghị định 02/CP ngày 15 tháng 01 năm 1994.
Mức đất giao bằng mức diện tích bình quân giao cho các hộ nông dân tại địa phương.
3. Đối với những cán bộ công nhân viên lâm trường trong quá trình sắp xếp, tổ chức lại sản xuất, không bố trí được việc làm và cũng không có điều kiện đào tạo lại để chuyển đổi ngành nghề thì giải quyết cho thôi việc theo chế độ hiện hành. Nơi gặp khó khăn về kinh phí, nếu người thôi việc tự nguyện có thể thanh toán trợ cấp thôi việc bằng giá trị rừng sản xuất là rừng trồng của lâm trường. Sau khi khai thác rừng người được thanh toán chế độ thôi việc bằng giá trị rừng cây phải giao trả lại đất cho lâm trường hoặc tiếp tục nhận khoán với lâm trường. Nếu người thôi việc xin cư trú tại địa bàn lâm trường thì chính quyền địa phương có trách nhiệm đăng ký hộ khẩu thường trú, giao đất nông, lâm nghiệp ở nơi có điều kiện sản xuất thuận lợi cho họ bằng mức bình quân giao cho hộ nông dân tại địa phương.
4. Trong khi thực hiện các khoản 1, 2, 3 của điều này, nếu địa phương không còn quỹ đất để giao thì lâm trường đề nghị chính quyền địa phương lấy đất của mình để giao cho các hộ gia đình thuộc diện nêu trên, nhưng phải theo quy hoạch, không được làm đất của lâm trường bị chia cắt manh mún và phải đưa ra khỏi quỹ đất quy hoạch cho lâm trường.
5. Đối với cán bộ công nhân lâm trường hiện đang công tác, nhận khoán đất và rừng của lâm trường, nhưng không hưởng lương theo ngạch bậc Nhà nước quy định mà hưởng thu nhập từ kết quả sản xuất qua nhận khoán đất và rừng thì đóng bảo hiểm xã hội và hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định riêng của Chính phủ về chính sách chế độ bảo hiểm xã hội cho những người lao động làm việc trong các nông-lâm trường quốc doanh.
Điều 6. Chính sách tài chính:
1. Tiền bán gỗ và lâm sản chính khi khai thác rừng được phân bổ như sau:
– Thanh toán chi phí tạo rừng của lâm trường, nếu có (trong đó có thanh toán hợp đồng khoán cho hộ gia đình, cá nhân và tổ chức nhận khoán gây trồng, bảo vệ, nuôi dưỡng rừng theo quy định trong hợp đồng khoán), trang trải chi phí cho việc khai thác vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm;
– Thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước;
– Trích lập các quỹ của lâm trường theo quy định của pháp luật.
2. Nhà nước cấp lại cho lâm trường quốc doanh toàn bộ tiền thuế thu nhập doanh nghiệp để đầu tư tái tạo rừng và thực hiện các nhiệm vụ công ích khác của lâm trường theo dự toán được ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt.
3. Nhà nước giao cho lâm trường quốc doanh các khoản vốn có nguồn gốc ngân sách đã được đầu tư cho lâm trường trồng rừng sản xuất trước đây để bổ sung vào vốn tự có của lâm trường.
4. Lâm trường quốc doanh được hưởng chính sách hỗ trợ đầu tư của Nhà nước để thực hiện các Dự án bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh, làm giàu rừng tự nhiên như đối với Dự án trồng rừng nguyên liệu tập trung quy định tại Nghị định số 43/1999/NĐ-CP ngày 29 tháng 6 năm 1999 của Chính phủ về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
5. Ngân sách Nhà nước đầu tư 100% kinh phí theo dự toán được ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt cho lâm trường quốc doanh để xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và thực hiện nhiệm vụ công ích bao gồm:
– Gây trồng, bảo vệ, nuôi dưỡng rừng phòng hộ rất xung yếu và xung yếu do lâm trường quản lý.
– Xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất trên địa bàn quy hoạch rừng nguyên liệu tập trung (hệ thống đường trục, bến, bãi, v.v…).
– Thực hiện các nhiệm vụ nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội đảm bảo quốc phòng an ninh trên địa bàn vùng cao, vùng sâu, vùng xa.
Điều 7. Đổi mới tổ chức quản lý trong nội bộ lâm trường:
1. Các lâm trường quốc doanh phải thực hiện giao khoán đất và rừng ổn định lâu dài theo Nghị định 01/CP ngày 04 tháng 1 năm 1995 của Chính phủ.
Khi triển khai giao khoán đất lâm nghiệp và rừng cho tổ chức hộ gia đình và cá nhân lâm trường phải lập hợp đồng quy định rõ: quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của bên nhận khoán và bên giao khoán; bảo đảm cho bên nhận khoán yên tâm đầu tư vốn và lao động vào việc chăm sóc, bảo vệ, phát triển rừng; bên nhận khoán được hưởng tỷ lệ thoả đáng sản phẩm chính khai thác từ rừng.
Ngoài ra, bên nhân khoán đất lâm nghiệp và rừng của lâm trường quốc doanh còn được hưởng sản phẩm phụ thu hái từ rừng (trừ những lâm sản thuộc loại quý hiếm được quy định tại Nghị định 18/HĐBT ngày 17 tháng 01 năm 1992); được đầu tư trồng cây nông – lâm kết hợp xen ghép với cây rừng để tăng thu nhập cải thiện đời sống.
2. Lâm trường quốc doanh được tổ chức các tổ, đội lao động chuyên nghiệp của mình để trực tiếp thực hiện nhiệm vụ sản xuất của lâm trường ở những vùng rừng khó khăn nếu khoán cho hộ gia đình hoặc các tổ chức, cá nhân khác thực hiện thì không có hiệu quả.
3. Lâm trường quốc doanh được dùng đất lâm nghiệp chưa có rừng và sử dụng các lợi thế của lâm trường (về vốn, kỹ thuật, thị trường, v.v…) để liên doanh liên kết với các hộ cán bộ công nhân viên lâm trường, hộ gia đình nông dân và các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để gây trồng rừng, kết hợp sản xuất nông, lâm nghiệp, chế biến, tiêu thụ sản phẩm từ rừng, đồng thời làm dịch vụ cho các thành phần kinh tế trên địa bàn gây trồng, bảo vệ phát triển rừng.
4. Lâm trường quốc doanh phối hợp với cơ quan kiểm lâm để bố trí cán bộ kiểm lâm chuyên theo dõi lâm trường, giúp giám đốc lâm trường chỉ đạo lực lượng bảo vệ rừng chuyên trách của lâm trường, tuần tra bảo vệ rừng, xử lý các trường hợp xâm phạm đến tài nguyên rừng, trong đó có việc buộc đương sự phải bồi thường thiệt hại và thu hồi tài sản cho chủ rừng theo đúng pháp luật.
5. Mỗi lâm trường chỉ cần có giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng và một số chuyên viên kỹ thuật, nghiệp vụ giúp việc. ở cấp đội sản xuất, chỉ cần có đội trưởng và một cán bộ kỹ thuật đội.
Điều 8. Tổ chức thực hiện:
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì cùng với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Tổng cục Địa chính và các ngành liên quan chỉ đạo ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các Tổng công ty có lâm trường quốc doanh xây dựng đề án sắp xếp, đổi mới tổ chức và quản lý lâm trường quốc doanh theo Quyết định này và hoàn thành việc thực hiện đề án trong năm 2000.
Điều 9. Quyết định này có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày ký, những quy định trước đây trái với Quyết định này đều bãi bỏ.
Điều 10. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ và Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện Quyết định này.
QUYẾT ĐỊNH
CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ SỐ 187/1999/QĐ-TTG NGÀY 16 THÁNG 9 NĂM 1999 VỀ ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ LÂM TRƯỜNG QUỐC DOANH
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Căn cứ Luật Doanh nghiệp Nhà nước ngày 30 tháng 4 năm 1995;
Căn cứ Luật Bảo vệ và Phát triển rừng ngày 19 tháng 8 năm 1991;
Căn cứ Luật Đất đai ngày 14 tháng 7 năm 1993 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai ngày 2 tháng 12 năm 1998;
Căn cứ quy định về sắp xếp lại tổ chức và đổi mới cơ chế quản lý các doanh nghiệp nông nghiệp Nhà nước ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 02 tháng 3 năm 1993 của Chính phủ.
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và ý kiến của các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Lao động – Thương binh và Xã hội, Ban Tổ chức – Cán bộ Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Tổng cục trưởng Tổng cục Địa chính,
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1. Mục tiêu:
Đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý lâm trường quốc doanh nhằm mục tiêu: nâng cao hiệu quả sản xuất – kinh doanh của lâm trường, làm tốt vai trò nòng cốt trong sản xuất lâm nghiệp, làm trung tâm dịch vụ vật tư, kỹ thuật, chế biến và tiêu thụ sản phẩm cho các tổ chức hộ gia đình và cá nhân sản xuất lâm, nông nghiệp, góp phần bảo vệ và phát triển rừng, phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn.
Điều 2. Nguyên tắc đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý lâm trường quốc doanh:
1. Tiếp tục duy trì, củng cố các lâm trường quốc doanh ở những vùng đất lâm nghiệp tập trung quy mô lớn, cần Nhà nước trực tiếp quản lý và đầu tư mà các thành phần kinh tế khác khó có khả năng thực hiện; ở vùng sâu, vùng xa để làm hạt nhân phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh trên địa bàn.
2. Bảo đảm cho lâm trường quốc doanh phát huy được quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh; người lao động lâm nghiệp thật sự là người chủ cụ thể của từng khu rừng nhận khoán, xoá bỏ bao cấp của Nhà nước trong các hoạt động kinh doanh của lâm trường.
3. Bảo đảm giải quyết hài hoà mối quan hệ lợi ích giữa người lao động với Nhà nước và lâm trường, giữa lâm trường với địa phương.
Điều 3. Tổ chức sắp xếp lại các lâm trường quốc doanh hiện có:
1. Các lâm trường quốc doanh được duy trì, củng cố để hoạt động theo cơ chế kinh doanh:
a) Những lâm trường quốc doanh đang quản lý rừng tự nhiên là rừng sản xuất và phòng hộ ít xung yếu.
b) Những lâm trường quốc doanh trồng rừng nguyên liệu công nghiệp.
Nhiệm vụ chính của các lâm trường quốc doanh là gây trồng, bảo vệ nuôi dưỡng rừng, khai thác chế biến lâm sản, cung ứng nguyên liệu cho các cơ sở chế biến công nghiệp và nhu cầu tiêu dùng khác của nền kinh tế quốc dân.
Ngoài các nhiệm vụ chính, các lâm trường được kinh doanh tổng hợp nông, lâm, ngư, công nghiệp và dịch vụ để sử dụng có hiệu quả tiềm năng lao động, đất đai và vốn rừng được giao.
Đối với diện tích rừng phòng hộ rất xung yếu và xung yếu phân bố xen kẽ với rừng sản xuất và rừng phòng hộ ít xung yếu của lâm trường, có diện tích chưa đến 5.000 ha để thành lập Ban quản lý rừng phòng hộ thì tiếp tục giao cho lâm trường quốc doanh quản lý theo quy chế rừng phòng hộ.
Việc bảo vệ, gây trồng rừng phòng hộ ở vùng rất xung yếu và xung yếu được coi là hoạt động công ích, do lâm trường thực hiện theo nhiệm vụ Nhà nước giao.
2. Chuyển đổi các lâm trường quốc doanh thành Ban quản lý rừng phòng hộ
Chuyển đổi lâm trường quốc doanh có 5.000 ha trở lên hoặc có trên 70% diện tích đất lâm nghiệp đang quản lý thuộc quy hoạch vùng phòng hộ xung yếu và rất xung yếu (được xác lập theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ hoặc của Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố ) thành Ban quản lý rừng phòng hộ hoạt động theo cơ chế đơn vị sự nghiệp kinh tế có thu. Diện tích rừng sản xuất và đất lâm nghiệp xen kẽ với rừng phòng hộ cũng giao cho Ban quản lý gây trồng, bảo vệ, khai thác sử dụng, tạo nguồn thu cho ngân sách.
3. Chuyển đổi lâm trường quốc doanh sang loại hình tổ chức kinh doanh khác:
Các lâm trường quốc doanh đang gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, quản lý diện tích rừng và đất quy hoạch để gây trồng rừng sản xuất từ 1.000 ha trở xuống, phân bố xen kẽ với đất nông nghiệp và gần khu dân cư, thì chuyển đổi thành loại hình tổ chức kinh doanh thích hợp để dịch vụ cho sản xuất nông, lâm, công nghiệp.
Khi chuyển đổi, phải có phương án trình cấp có thẩm quyền phê duyệt để xác định nhu cầu đất sử dụng cho hoạt động của tổ chức mới, chuyển giao rừng và phần diện tích đất còn lại cho chính quyền địa phương để giao hoặc cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuê sử dụng theo quy định của pháp luật.
Điều 4. Quản lý, sử dụng rừng và đất lâm nghiệp:
1. Uỷ ban nhân dân các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương cùng với cơ quan chủ quản của các lâm trường (nếu có), rà soát lại diện tích đất và rừng của các lâm trường chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, làm rõ ranh giới trên bản đồ và trên thực địa phần đất giao cho lâm trường quản lý.
Đến hết năm 2000, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải hoàn thành việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gắn với giao rừng cho lâm trường quốc doanh dưới sự hướng dẫn của Tổng cục Địa chính và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Phần đất và rừng còn lại lâm trường chuyển giao lại cho chính quyền địa phương để giao hoặc cho các tổ chức, hộ gia đình cán bộ công nhân viên lâm trường, hộ nông dân trên địa bàn thuê, sử dụng theo quy định của pháp luật.
2. Giao quyền quản lý sử dụng rừng ổn định lâu dài cho lâm trường quốc doanh trên cơ sở quy hoạch ba loại rừng (đặc dụng, phòng hộ và sản xuất), phân loại rừng theo trạng thái, xác định rõ diện tích và chất lượng rừng cụ thể làm căn cứ để kiểm tra các lâm trường trong việc bảo vệ, phát triển rừng và sử dụng rừng theo quy chế hiện hành.
Trong quý I năm 2000, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phải ban hành quy định về trình tự, thủ tục giao và khoán rừng, phương pháp phân loại rừng, xác định chất lượng rừng khi giao và khoán để làm cơ sở chỉ đạo các cấp, các ngành thực hiện.
3. Đối với rừng sản xuất và phòng hộ ít xung yếu là rừng tự nhiên, lâm trường phải thực hiện các biện pháp kỹ thuật lâm sinh để nuôi dưỡng, làm giàu rừng, được phép khai thác, sử dụng rừng theo phương án điều chế rừng và thiết kế khai thác được ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt.
Hàng năm khi kế hoạch khai thác được duyệt, lâm trường phải cùng với bên nhận khoán (tổ chức, hộ gia đình, cá nhân) thống nhất kế hoạch khai thác và giám sát việc khai thác. Lâm trường được quyền tự tổ chức lực lượng khai thác, hoặc khoán cho đơn vị khác khai thác theo phương thức đấu thầu chi phí.
4. Đối với rừng sản xuất là rừng trồng, lâm trường được quyền quyết định thời điểm, phương thức khai thác và có kế hoạch tái tạo rừng sau khi khai thác. Lâm sản khai thác từ rừng trồng được tự do lưu thông trên thị trường.
5. Đối với rừng phòng hộ rất xung yếu và xung yếu là rừng tự nhiên, do lâm trường quản lý, lâm trường được khai thác chọn cây khô chết, cây đổ gẫy, cây sâu bệnh, cây cụt ngọn, cây già cỗi, cây ở nơi có mật độ quá dày, với cường độ tối đa 20% theo thiết kế khai thác được ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt.
Với rừng tre, nứa tự nhiên, khi độ che phủ đạt tới 80%, được phép khai thác với cường độ tối đa 20% theo thiết kế được ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt.
6. Đối với rừng phòng hộ xung yếu và rất xung yếu là rừng trồng bằng vốn ngân sách Nhà nước, lâm trường được phép khai thác cây phù trợ; tận thu lâm sản phụ.
Khi cây rừng chính đạt tiêu chuẩn khai thác thì lâm trường được phép khai thác theo luân kỳ, với cường độ không quá 10% diện tích đã gây trồng thành rừng theo phương thức chặt chọn, chặt theo băng, hay theo đám nhỏ có diện tích dưới 1 ha ở vùng xung yếu và dưới 0,5 ha ở vùng rất xung yếu.
Lâm trường phải có biện pháp tái tạo rừng trong vòng 12 tháng sau khi khai thác.
Điều 5. Chính sách lao động:
1. Hộ gia đình cán bộ công nhân viên lâm trường (bao gồm cả những người đang làm việc và những người nghỉ mất sức, nghỉ hưu) nếu cư trú hợp pháp trên địa bàn, chưa được cấp đất ở thì lâm trường đề nghị chính quyền địa phương giao và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở cho họ.
2. Lâm trường phối hợp với ủy ban nhân dân xã (phường, thị trấn) sở tại đề nghị ủy ban nhân dân huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giao và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sản xuất nông – lâm nghiệp cho các đối tượng thuộc hộ gia đình cán bộ công nhân viên lâm trường thuộc diện giao đất theo quy định tại Nghị định 64/CP ngày 27 tháng 9 năm 1993, Nghị định số 85/1999/NĐ-CP ngày 28 tháng 8 năm 1999 và Nghị định 02/CP ngày 15 tháng 01 năm 1994.
Mức đất giao bằng mức diện tích bình quân giao cho các hộ nông dân tại địa phương.
3. Đối với những cán bộ công nhân viên lâm trường trong quá trình sắp xếp, tổ chức lại sản xuất, không bố trí được việc làm và cũng không có điều kiện đào tạo lại để chuyển đổi ngành nghề thì giải quyết cho thôi việc theo chế độ hiện hành. Nơi gặp khó khăn về kinh phí, nếu người thôi việc tự nguyện có thể thanh toán trợ cấp thôi việc bằng giá trị rừng sản xuất là rừng trồng của lâm trường. Sau khi khai thác rừng người được thanh toán chế độ thôi việc bằng giá trị rừng cây phải giao trả lại đất cho lâm trường hoặc tiếp tục nhận khoán với lâm trường. Nếu người thôi việc xin cư trú tại địa bàn lâm trường thì chính quyền địa phương có trách nhiệm đăng ký hộ khẩu thường trú, giao đất nông, lâm nghiệp ở nơi có điều kiện sản xuất thuận lợi cho họ bằng mức bình quân giao cho hộ nông dân tại địa phương.
4. Trong khi thực hiện các khoản 1, 2, 3 của điều này, nếu địa phương không còn quỹ đất để giao thì lâm trường đề nghị chính quyền địa phương lấy đất của mình để giao cho các hộ gia đình thuộc diện nêu trên, nhưng phải theo quy hoạch, không được làm đất của lâm trường bị chia cắt manh mún và phải đưa ra khỏi quỹ đất quy hoạch cho lâm trường.
5. Đối với cán bộ công nhân lâm trường hiện đang công tác, nhận khoán đất và rừng của lâm trường, nhưng không hưởng lương theo ngạch bậc Nhà nước quy định mà hưởng thu nhập từ kết quả sản xuất qua nhận khoán đất và rừng thì đóng bảo hiểm xã hội và hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định riêng của Chính phủ về chính sách chế độ bảo hiểm xã hội cho những người lao động làm việc trong các nông-lâm trường quốc doanh.
Điều 6. Chính sách tài chính:
1. Tiền bán gỗ và lâm sản chính khi khai thác rừng được phân bổ như sau:
– Thanh toán chi phí tạo rừng của lâm trường, nếu có (trong đó có thanh toán hợp đồng khoán cho hộ gia đình, cá nhân và tổ chức nhận khoán gây trồng, bảo vệ, nuôi dưỡng rừng theo quy định trong hợp đồng khoán), trang trải chi phí cho việc khai thác vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm;
– Thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước;
– Trích lập các quỹ của lâm trường theo quy định của pháp luật.
2. Nhà nước cấp lại cho lâm trường quốc doanh toàn bộ tiền thuế thu nhập doanh nghiệp để đầu tư tái tạo rừng và thực hiện các nhiệm vụ công ích khác của lâm trường theo dự toán được ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt.
3. Nhà nước giao cho lâm trường quốc doanh các khoản vốn có nguồn gốc ngân sách đã được đầu tư cho lâm trường trồng rừng sản xuất trước đây để bổ sung vào vốn tự có của lâm trường.
4. Lâm trường quốc doanh được hưởng chính sách hỗ trợ đầu tư của Nhà nước để thực hiện các Dự án bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh, làm giàu rừng tự nhiên như đối với Dự án trồng rừng nguyên liệu tập trung quy định tại Nghị định số 43/1999/NĐ-CP ngày 29 tháng 6 năm 1999 của Chính phủ về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
5. Ngân sách Nhà nước đầu tư 100% kinh phí theo dự toán được ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt cho lâm trường quốc doanh để xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và thực hiện nhiệm vụ công ích bao gồm:
– Gây trồng, bảo vệ, nuôi dưỡng rừng phòng hộ rất xung yếu và xung yếu do lâm trường quản lý.
– Xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất trên địa bàn quy hoạch rừng nguyên liệu tập trung (hệ thống đường trục, bến, bãi, v.v…).
– Thực hiện các nhiệm vụ nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội đảm bảo quốc phòng an ninh trên địa bàn vùng cao, vùng sâu, vùng xa.
Điều 7. Đổi mới tổ chức quản lý trong nội bộ lâm trường:
1. Các lâm trường quốc doanh phải thực hiện giao khoán đất và rừng ổn định lâu dài theo Nghị định 01/CP ngày 04 tháng 1 năm 1995 của Chính phủ.
Khi triển khai giao khoán đất lâm nghiệp và rừng cho tổ chức hộ gia đình và cá nhân lâm trường phải lập hợp đồng quy định rõ: quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của bên nhận khoán và bên giao khoán; bảo đảm cho bên nhận khoán yên tâm đầu tư vốn và lao động vào việc chăm sóc, bảo vệ, phát triển rừng; bên nhận khoán được hưởng tỷ lệ thoả đáng sản phẩm chính khai thác từ rừng.
Ngoài ra, bên nhân khoán đất lâm nghiệp và rừng của lâm trường quốc doanh còn được hưởng sản phẩm phụ thu hái từ rừng (trừ những lâm sản thuộc loại quý hiếm được quy định tại Nghị định 18/HĐBT ngày 17 tháng 01 năm 1992); được đầu tư trồng cây nông – lâm kết hợp xen ghép với cây rừng để tăng thu nhập cải thiện đời sống.
2. Lâm trường quốc doanh được tổ chức các tổ, đội lao động chuyên nghiệp của mình để trực tiếp thực hiện nhiệm vụ sản xuất của lâm trường ở những vùng rừng khó khăn nếu khoán cho hộ gia đình hoặc các tổ chức, cá nhân khác thực hiện thì không có hiệu quả.
3. Lâm trường quốc doanh được dùng đất lâm nghiệp chưa có rừng và sử dụng các lợi thế của lâm trường (về vốn, kỹ thuật, thị trường, v.v…) để liên doanh liên kết với các hộ cán bộ công nhân viên lâm trường, hộ gia đình nông dân và các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để gây trồng rừng, kết hợp sản xuất nông, lâm nghiệp, chế biến, tiêu thụ sản phẩm từ rừng, đồng thời làm dịch vụ cho các thành phần kinh tế trên địa bàn gây trồng, bảo vệ phát triển rừng.
4. Lâm trường quốc doanh phối hợp với cơ quan kiểm lâm để bố trí cán bộ kiểm lâm chuyên theo dõi lâm trường, giúp giám đốc lâm trường chỉ đạo lực lượng bảo vệ rừng chuyên trách của lâm trường, tuần tra bảo vệ rừng, xử lý các trường hợp xâm phạm đến tài nguyên rừng, trong đó có việc buộc đương sự phải bồi thường thiệt hại và thu hồi tài sản cho chủ rừng theo đúng pháp luật.
5. Mỗi lâm trường chỉ cần có giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng và một số chuyên viên kỹ thuật, nghiệp vụ giúp việc. ở cấp đội sản xuất, chỉ cần có đội trưởng và một cán bộ kỹ thuật đội.
Điều 8. Tổ chức thực hiện:
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì cùng với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Tổng cục Địa chính và các ngành liên quan chỉ đạo ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các Tổng công ty có lâm trường quốc doanh xây dựng đề án sắp xếp, đổi mới tổ chức và quản lý lâm trường quốc doanh theo Quyết định này và hoàn thành việc thực hiện đề án trong năm 2000.
Điều 9. Quyết định này có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày ký, những quy định trước đây trái với Quyết định này đều bãi bỏ.
Điều 10. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ và Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện Quyết định này.
Reviews
There are no reviews yet.