QUYẾT ĐỊNH
CỦA BỘ TRƯỞNG BỘ GIÁO DỤC SỐ 1136-QĐ
NGÀY 21 THÁNG 9 NĂM 1971 BAN HÀNH "QUY CHẾ CHÍNH THỨC
CỦA CÁC LOẠI TRƯỜNG BỔ TÚC VĂN HOÁ TẠI CHỨC
CỦA CÁN BỘ, CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC"
BỘ TRƯỞNG BỘ GIÁO DỤC
– Căn cứ Nghị định số 19-CP ngày 29-01-1966 và Nghị định số 6-CP ngày 7-01-1971 của Hội đồng Chính phủ quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy Bộ Giáo dục;
– Căn cứ Chỉ thị số 110-CP ngày 13-7-1968 của Hội đồng Chính phủ quy định phương hướng, nhiệm vụ phát triển bổ túc văn hoá và tăng cường lãnh đạo công tác bổ túc văn hoá;
– Căn cứ yêu cầu mới xây dựng nền nếp quản lý, giảng dạy và học tập trong các trường bổ túc văn hoá tại chức của cán bộ, công nhân, viên chức;
– Xét đề nghị của ông Vụ trưởng Vụ Bổ túc văn hoá,
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1. Ban hành bản “Quy chế chính thức của các loại trường bổ túc văn hoá tại chức của cán bộ, công nhân, viên chức” (đính kèm theo Quyết định này).
Điều 2. Các ông Chánh Văn phòng, Vụ trưởng Vụ Bổ túc văn hoá và Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ Bộ Giáo dục chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
QUY CHẾ
TRƯỜNG BỔ TÚC VĂN HOÁ TẠI CHỨC CỦA CÁN BỘ, CÔNG NHÂN
(Ban hành kèm theo Quyết định số 1136/QĐ ngày 21 tháng 9 năm 1971
của Bộ Giáo dục)
Tháng 8 năm 1963, Bộ Giáo dục đã ban hành “Quy chế tạm thời trường bổ túc văn hoá ngoài giờ làm việc của cán bộ, công nhân”. Với yêu cầu mới của sự nghiệp phát triển giáo dục nói chung và yêu cầu xây dựng ngành học bổ túc văn hoá, văn bản nói trên có nhiều điểm không thích hợp nữa.
Nay Bộ Giáo dục ban hành quy chế chính thức dùng cho các loại trường bổ túc văn hoá tại chức của cán bộ, công nhân, viên chức, thay thế cho bản quy chế tạm thời nói trên.
CHƯƠNG I
MỤC ĐÍCH – ĐỐI TƯỢNG CỦA TRƯỜNG
Điều 1. Trường Bổ túc văn hoá tại chức tổ chức ở cơ quan, xí nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường, hợp tác xã thủ công nghiệp và đội thanh niên xung phong (tập trung) hoặc tổ chức ở từng khu vực tập trung nhiều xí nghiệp và cơ quan chính, dân, đảng là nơi học tập văn hoá nhằm từng bước nâng cao trình độ văn hoá cho cán bộ, công nhân, viên chức, giúp họ có điều kiện tiếp thu tốt chính trị, kỹ thuật, nghiệp vụ, tạo thêm điều kiện nâng cao năng suất lao động và hiệu suất công tác.
Điều 2. Đối tượng của trường bao gồm tất cả các loại cán bộ, công nhân, viên chức, xã viên hợp tác xã thủ công nghiệp, đội viên thanh niên xung phong và thanh niên, học sinh phổ thông đã trở về tham gia sản xuất có nhu cầu học tập và được các đơn vị sắp xếp cho đi học.
Nhà trường cần đặc biệt coi trọng tổ chức học tập cho những cán bộ lãnh đạo Đảng, chính quyền, đoàn thể, những công nhân ưu tú trong sản xuất, tạo điều kiện học tập cho những người có khó khăn như phụ nữ có con mọn, người dân tộc thiểu số, những cán bộ, công nhân phải lưu động thường xuyên.
CHƯƠNG II
CHƯƠNG TRÌNH HỌC
Điều 3. Tất cả các loại trường bổ túc văn hoá tại chức của cán bộ, công nhân đều dạy theo chương trình và sách giáo khoa bổ túc văn hoá do Bộ Giáo dục ban hành, không được tuỳ tiện thay đổi.
Điều 4. Đối với những cán bộ, công nhân đã trên 35 tuổi, khả năng tiếp thu văn hoá, khoa học có khó khăn và không cần theo học một chương trình hoàn chỉnh, nội dung chương trình học có thể được giảm bớt ít nhiều sau khi đã được cơ quan giáo dục đồng ý.
Để phục vụ sát yêu cầu của sản xuất và chiến đấu của từng ngành, nghề, các ngành có thể đề nghị bổ sung một số phần cần thiết và được cơ quan giáo dục đồng ý.
CHƯƠNG III
TỔ CHỨC TRƯỜNG LỚP VÀ CHẾ ĐỘ HỌC TẬP
Điều 5. Trường bổ túc văn hoá tại chức của cán bộ, công nhân tổ chức ở mỗi cơ quan, xí nghiệp hoặc chung cho nhiều cơ quan, xí nghiệp được thành lập theo quyết định của cấp uỷ Đảng và chính quyền đơn vị mở trường, đăng ký với cơ quan giáo dục địa phương, được cơ quan giáo dục địa phương xét duyệt, công nhận, quản lý và hướng dẫn về nội dung, phương pháp giảng dạy, học tập, về quy chế tổ chức, hoạt động chuyên môn, nhằm bảo đảm chất lượng giảng dạy học tập.
Nhà trường là một đơn vị có tổ chức của một hay nhiều cơ quan, xí nghiệp, được cấp uỷ Đảng, chính quyền, Công đoàn và Đoàn thanh niên lao động Hồ Chí Minh địa phương và cơ sở trực tiếp chỉ đạo, xây dựng về mọi mặt (tư tưởng chính trị, tổ chức, nhân sự, cơ sở vật chất …) như đối với các bộ phận sản xuất, hành chính khác trong cơ quan, xí nghiệp.
Điều 6.Ở các khu công nghiệp lớn, các thành phố, khu phố thuộc các thành phố trực thuộc trung ương, các huyện tập trung đông cán bộ, công nhân, viên chức, ngoài loại trường của mỗi cơ quan, xí nghiệp hoặc trường liên cơ quan, liên xí nghiệp nói ở điều 5, cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương cần tổ chức một, hai trường bổ túc văn hoá cấp 2, 3 chung cho cả khu vực, giao cho cơ quan giáo dục địa phương trực tiếp tổ chức, quản lý toàn diện và điều một số giáo viên chuyên trách làm nòng cốt.
Điều 7. Cơ quan giáo dục chỉ công nhận những trường theo đúng các quy định sau đây:
1. Phải có ít nhất từ 80 đến 100 học viên theo học thường xuyên;
2. Phải có đủ giáo viên có trình độ nói trong Điều 15 của quy chế này, có ban giám hiệu thực sự làm việc;
3. Phải có đủ chỗ học cho các lớp với một số điều kiện tối thiểu: đủ bàn ghế cho người học, người dạy, đủ bảng đen, đủ ánh sáng;
4. Phải có tương đối đầy đủ sách giáo khoa, đồ dùng dạy học phục vụ giảng dạy và học tập;
5. Phải có đủ sổ sách cần thiết cho mỗi lớp: sổ gọi tên, sổ ghi điểm, sổ ghi đầu bài, sổ thu học phí, học bạ, sổ sinh hoạt lớp. Các sổ sách đó phải có người bảo quản chu đáo và được ban giám hiệu và giáo viên chủ nhiệm lớp kiểm tra thường xuyên.
6. Phải giảng dạy theo đúng và đủ chương trình và sách giáo khoa của Bộ Giáo dục, năm học phải bắt đầu và kết thúc tương đối ăn khớp với thời gian quy định chung của ngành giáo dục: khai giảng đầu tháng 9, kết thúc cuối tháng 5 năm sau. Phải bảo đảm số tuần thực học (37 tuần trong một năm học) và số giờ thực học tối thiểu trong một tuần (6 tiết).
Những nơi có khó khăn đặc biệt (cơ sở phân tán, lưu động, miền núi, thời vụ sản xuất đặc biệt…) chưa thể thực hiện ngay những quy định trong điều 7, cơ quan giáo dục có thể châm chước một phần khi xét duyệt, đồng thời tăng cường giúp những trường đó từng bước phấn đấu thực hiện đầy đủ các quy định này.
Điều 8. Tất cả các loại trường bổ túc văn hoá tại chức của cán bộ, công nhân cần tổ chức cho học viên học tập theo nhiều hình thức, học vào những thời gian có thể khác nhau, phù hợp với điều kiện công tác, sản xuất và sinh hoạt của người học: những lớp học buổi tối cho loại cán bộ, công nhân làm theo giờ hành chính, những lớp học xen kẽ cho công nhân làm ca, những lớp tập trung định kỳ (mỗi tháng tập trung học hai ngày) cho loại cán bộ, công nhân phải lưu động thường xuyên. Số người dạy và học vào giờ lao động (như lớp tập trung định kỳ) phải được thủ trưởng đơn vị hoặc chính quyền địa phương xét và cho phép từ đầu năm học.
CHƯƠNG IV
TỔ CHỨC, QUẢN LÝ, KIỂM TRA – CHẾ ĐỘ BÁO CÁO
Điều 9. Mỗi trường bổ túc văn hoá tại chức (của một hoặc nhiều cơ quan, xí nghiệp) phải có một ban giám hiệu 3 người, do thủ trưởng các đơn vị mở trường chỉ định sau khi đã nghiên cứu quy chế và ý kiến của cơ quan giáo dục địa phương. Thành phần ban giám hiệu gồm hiệu trưởng phụ trách chung (là một lãnh đạo Đảng hay chính quyền của đơn vị), một hiệu phó phụ trách giáo vụ và tổ chức (là một giáo viên chuyên trách có năng lực quản lý chuyên môn của nhà trường) và một uỷ viên phụ trách tài chính, cơ sở vật chất. Ban giám hiệu loại trường khu vực nói ở điều 6 do các Sở, Ty Giáo dục ra quyết định cử (có hướng dẫn riêng của Bộ).
Điều 10. Ban giám hiệu có trách nhiệm lãnh đạo toàn diện công tác của trường tập trung vào 3 việc chính:
1. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch phát triển hàng năm của trường;
2. Chỉ đạo xây dựng nền nếp quản lý chuyên môn, nền nếp giảng dạy và học tập trong trường, bảo đảm chất lượng giảng dạy, làm cho việc học bổ túc văn hoá của cán bộ, công nhân ngày càng có tác dụng thiết thực, vững chắc;
3. Xây dựng và quản lý các điều kiện vật chất phục vụ giảng dạy, học tập.
Ngoài nhiệm vụ chung, từng uỷ viên trong ban giám hiệu cần được phân công phụ trách một số công việc cụ thể (theo hướng dẫn của cơ quan giáo dục). Hiệu trưởng hoặc hiệu phó có trách nhiệm đi dự các buổi họp chuyên môn do cơ quan giáo dục triệu tập thường kỳ.
Điều 11. Ban giám hiệu cần được ổn định trong cả năm học; hàng tháng ít nhất phải họp chính thức một kỳ để kiểm điểm tình hình và bàn công tác tháng sau; những buổi học hàng tuần phải có mặt đầy đủ ở nơi làm việc đã quy định để trực tiếp theo dõi, chỉ đạo các buổi học, nắm tình hình đi học của các lớp, tình hình giảng dạy của giáo viên, hoặc trực tiếp giảng dạy một số tiết. Đồng chí hiệu phó (phụ trách giáo vụ) phải đề ra phương hướng, kế hoạch giảng dạy và ôn tập từng tháng, từng học kỳ, đôn đốc, kiểm tra việc giảng dạy, thực hiện chương trình của từng giáo viên, chủ trì các buổi sinh hoạt chuyên môn của giáo viên.
Điều 12. Tất cả hiệu trưởng, hiệu phó và uỷ viên ban giám hiệu (trừ đồng chí giáo viên chuyên trách) nếu làm đầy đủ những công việc nói trong điều 14 và làm ngoài giờ lao động thì đều được hưởng thù lao hàng tháng (trích quỹ học phí) theo điều 30 của quy chế này.
Điều 13. Tuỳ theo sự phân công cơ quan giáo dục địa phương (Sở, Ty, Phòng giáo dục) có trách nhiệm quản lý các trường bổ túc văn hoá tại chức về chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, kiểm tra việc thực hiện chương trình và quy chế do bộ Giáo dục ban hành. Cơ quan giáo dục cũng có trách nhiệm nhắc nhở, hướng dẫn các ngành, các cơ sở sản xuất ở địa phương quán triệt và thực hiện tốt các chỉ thị của Đảng và Chính phủ về công tác bổ túc văn hoá, nhắc nhở các ngành và cơ sở sản xuất phải tự mình quản lý, kiểm tra, đôn đốc công tác bổ túc văn hoá, tạo điều kiện tốt nhất về cơ sở vật chất, về thời gian học tập … cho trường bổ túc văn hoá tại chức có thể hoàn thành nhiệm vụ năm học.
Điều 14. Sau khi khai giảng, sau khi hoàn thành một học kỳ và sau khi kết thúc năm học, hiệu trưởng phải báo cáo tình hình nhà trường về mọi mặt (theo mẫu báo cáo của ngành giáo dục) cho thủ trưởng đơn vị và cơ quan giáo dục địa phương.
CHƯƠNG V
GIÁO VIÊN
Điều 15. Giáo viên trường bổ túc văn hoá tại chức của cán bộ, công nhân, viên chức gồm giáo viên chuyên trách và giáo viên kiêm chức (kể cả giáo viên phổ thông tham gia dạy bổ túc văn hoá), tất cả phải đạt những tiêu chuẩn chung sau đây:
1. Về văn hoá, phải có trình độ cao hơn học viên một cấp học: dạy cấp I phải tốt nghiệp cấp II (phổ thông hay bổ túc văn hoá), dạy cấp II phải tốt nghiệp cấp III (phổ thông hay bổ túc văn hoá), dạy cấp III phải tốt nghiệp đại học sư phạm hoặc tốt nghiệp các trường đại học khác. Ở những nơi số người có văn hoá cao để dạy bổ túc văn hoá không nhiều, tiêu chuẩn trình độ văn hoá của giáo viên các lớp đầu cấp I và cấp II có thể thấp hơn tiêu chuẩn trên một chút, nhưng ít nhất cũng phải có trình độ cao hơn học viên 2 lớp.
Giáo viên chuyên trách ít nhất phải có trình độ văn hoá tốt nghiệp lớp 10 (bổ túc văn hoá hay phổ thông) hoặc sư phạm cấp II.
2. Về nghiệp vụ, phải nắm được những nguyên tắc và phương pháp giảng dạy cơ bản, biết vận dụng những nguyên tắc và phương pháp đó vào việc giảng dạy văn hoá cho người lớn tuổi.
3. Về tư cách đạo đức: có tinh thần trách nhiệm và nhiệt tình cách mạng cao, được quần chúng yêu mến và tin cậy.
4. Đối với giáo viên kiêm chức, phải có điều kiện đảm bảo giảng dạy liên tục trong cả một năm.
Điều 16. Hàng năm, trước khi khai giảng năm học, lãnh đạo cơ sở mở trường phải xem xét bố trí lại đội ngũ giáo viên bổ túc văn hoá của trường tại chức theo đúng tiêu chuẩn nói trong điều 15, sau đó gửi bản danh sách giáo viên đó tới cơ quan giáo dục địa phương xét duyệt. Trong năm học, nếu cần thay đổi giáo viên, cũng phải được sự đồng ý của cơ quan giáo dục.
Điều 17. Tất cả các giáo viên (kể cả giáo viên phổ thông dạy bổ túc văn hoá) có nhiệm vụ giảng dạy tốt bộ môn đã được phân công, cụ thể là phải thực hiện đầy đủ các khâu liên hoàn của công tác giảng dạy – dự đầy đủ các lớp học hay hội nghị về chuyên môn (kể cả các buổi sinh hoạt chuyên môn thường kỳ của nhóm, tổ giáo viên và hội đồng nhà trường):
– Nghiên cứu, nắm vững chương trình, sách giáo khoa;
– Làm kế hoạch giảng dạy;
– Soạn giáo án và lên lớp giảng dạy, tổ chức thực hành, thí nghiệm;
– Theo dõi, hướng dẫn việc học tập ở nhà của học viên;
– Chấm bài, kiểm tra, cho điểm và đánh giá kết quả học tập của học viện;
– Thường xuyên tự rút kinh nghiệm giảng dạy và học tập kinh nghiệm của các giáo viên khác.
Riêng đối với giáo viên chuyên trách, ngoài một số giờ lên lớp nhất định, phải làm tốt nhiệm vụ chỉ đạo chuyên môn giảng dạy và kịp thời đề xuất với lãnh đạo đơn vị những biện pháp nhằm bảo đảm thực hiện tốt kế hoạch phát triển bổ túc văn hoá hàng năm của đơn vị.
Điều 18. Chế độ, chính sách đối với giáo viên.
1. Giáo viên chuyên trách.
Giáo viên chuyên trách bổ túc văn hoá có nhiệm vụ sử dụng toàn bộ thời gian lao động của mình vào công tác bổ túc văn hoá. Thủ trưởng đơn vị có trách nhiệm quản lý, sử dụng giáo viên chuyên trách bổ túc văn hoá đúng chức năng của họ, không yêu cầu họ làm những việc ngoài những việc đã ghi trong điều 17 và tạo điều kiện cho họ làm tròn nhiệm vụ trong mọi hoàn cảnh.
Tất cả các giáo viên chuyên trách bổ túc văn hoá công tác ở cơ quan, xí nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường, hợp tác xã thủ công nghiệp và đội thanh niên xung phong (tập trung) do ngành giáo dục biệt phái hoặc do cơ sở mở trường tuyển dụng đều được hưởng các chế độ công tác, hội họp, chế độ nghỉ hè hàng năm, chế độ bồi dưỡng nghiệp vụ, văn hoá. .. như đối với giáo viên phổ thông cùng cấp (Thông tư Liên bộ Giáo dục – Tài chính số 54-TT/LB ngày 15-12-1961).
Những giáo viên chuyên trách nguyên là cán bộ, công nhân được chuyển sang chuyên trách công tác bổ túc văn hoá, cần được bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm và sau một năm có thể được xét và chuyển sang hưởng các chế độ, chính sách đối với giáo viên, kể cả chế độ tiền lương (có sự kiểm tra, xác nhận của cơ quan giáo dục; riêng vấn đề chuyển sang thang lương giáo viên: Sở, Ty giáo dục quyết định đối với giáo viên cấp I và cấp II, Bộ Giáo dục quyết định đối với giáo viên cấp III).
2. Giáo viên kiêm chức.
Cơ sở mở trường phải bảo đảm cho giáo viên kiêm chức (là cán bộ, công nhân tham gia dạy bổ túc văn hoá) những điều kiện, quyền lợi về vật chất, tinh thần đã được Nhà nước quy định. Cụ thể là:
– Quy định cho giáo viên kiêm chức sử dụng một số giờ lao động tối thiểu trong một tuần để soạn bài, chuẩn bị lên lớp giảng dạy (Thông tư 195-TTg ngày 17-5-1961 của Thủ tướng Chính phủ và Chỉ thị 110-CP ngày 13-7-1968 của Hội đồng Chính phủ).
– Hàng năm, giáo viên kiêm chức được nghỉ sản xuất, công tác để đi dự các lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ sư phạm do cơ quan giáo dục hoặc cơ sở tổ chức; trong thời gian đi học vẫn được hưởng lương và được phụ cấp đi đường (Thông tư 195-TTg và Chỉ thị 110-CP).
– Thường xuyên thông báo cho giáo viên kiêm chức tình hình, chủ trương công tác của ngành chủ quản và cơ sở, tình hình học viên… để vận dụng thực hiện vào nội dung giảng dạy.
– Bảo đảm trả thù lao giảng dạy cho giáo viên kiêm chức theo đúng quy định hiện hành (ghi trong Điều 30 của quy chế này).
– Giáo viên kiêm chức được bớt một số công tác xã hội và đoàn thể để có điều kiện giảng dạy tốt.
CHƯƠNG VI
HỌC VIÊN
Điều 19. Học viên là những người đang làm việc trong các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước, phải tự giác xem việc đi học bổ túc văn hoá không phải là một quyền lợi mà còn là một nghĩa vụ đối với Tổ quốc. Vì vậy, học viên phải cố gắng khắc phục khó khăn để đi học đều, học đầy đủ chương trình, thực hiện đúng nội quy, kế hoạch học tập của ban giám hiệu.
Điều 20. Cán bộ, công nhân, viên chức muốn vào học, phải thông qua tổ chức đăng ký đi học ở cơ sở và được lãnh đạo đơn vị nhất trí: phải có đầy đủ giấy tờ cần thiết chứng thực lớp hoặc cấp học đã học qua. Học viên xin vào học cấp II phải có học bạ các lớp cấp I đã học qua, giấy chứng nhận tốt nghiệp cấp I – Học viên xin vào học cấp III phải có học bạ các lớp đã học qua, giấy chứng nhận tốt nghiệp cấp II. Trường hợp cần thiết, nhà trường có thể kiểm tra để sắp xếp học viên vào các lớp cho đúng trình độ. Học viên phải đóng học phí đều hàng tháng theo quy định hiện hành.
Điều 21. Thủ trưởng đơn vị cần chấp hành đầy đủ chế độ học tập bổ túc văn hoá tại chức đã được Nhà nước ban hành, bố trí thời gian học tập sao cho mọi cán bộ, công nhân viên chức thuộc đơn vị mình đều có thể đi học và học hết chương trình một cách thuận lợi và hợp lý nhất.
CHƯƠNG VII
KIỂM TRA LÊN LỚP VÀ THI HẾT CẤP
Điều 22. Học viên học hết chương trình một lớp sẽ dự kỳ kiểm tra lên lớp, học hết chương trình một cấp sẽ dự kỳ thi hết cấp.
Vào một, hai tháng trước khi thi hết cấp, thủ trưởng đơn vị cần cố gắng sắp xếp cho học viên các lớp 4, 7B và 10B được nghỉ các buổi họp, học tập khác hoặc được nghỉ phép năm, để họ hoàn thành tốt việc ôn tập và dự thi. Bản thân học viên phải tích cực tranh thủ thời gian rảnh rỗi để ôn tập; giáo viên phải cố gắng giúp học viên ôn tập; ban giám hiệu phải chỉ đạo chặt việc ôn tập cuối năm.
Điều 23. Điều kiện dự kiểm tra lên lớp và thi hết cấp.
1. Kiểm tra lên lớp.
Căn bản học hết chương trình các bộ môn, làm tương đối đầy đủ các bài kiểm tra hàng tháng:
– Thời gian nghỉ học không quá 1/5 số thời gian phải thực học trong một năm (nghỉ quá 1/5 thời gian thực học thì phải được giáo viên giúp đỡ học bù tốt).
– Chỉ xét lên lớp các học viên có dự kiểm tra lên lớp và các điểm kiểm tra đều đạt trung bình trở lên. Môn nào không đạt điểm trung bình, học viên được tổ chức kiểm tra lại vào cuối hè. Nếu kiểm tra lại vẫn không đạt điểm trung bình thì phải ở lại lớp. Nhưng nếu chỉ phải kiểm tra lại một môn không phải Văn hoặc toán mà vẫn không đạt yêu cầu thì giáo viên tham khảo điểm tổng kết cuối năm của môn đó để xét cho lên lớp hay không.
2. Thi kết cấp.
Như quy chế thi hết cấp bổ túc văn hoá của Bộ Giáo dục.
CHƯƠNG VIII
KHEN THƯỞNG – KỶ LUẬT
Điều 24. Trường bổ túc văn hoá tại chức của cán bộ, công nhân, đơn vị cơ sở của ngành giáo dục, cần tích cực đẩy mạnh phong trào thi đua “hai tốt” trong toàn trường, phấn đấu xây dựng nhà trường đạt danh hiệu “Trường bổ túc văn hoá tiên tiến” theo tiêu chuẩn ngành giáo dục quy định. Đầu năm học, ban giám hiệu xây dựng và công bố bản đăng ký thi đua. Cuối năm học, sau khi tự kiểm tra, nhà trường đề nghị cơ quan giáo dục kiểm tra, xét và xếp loại.
Điều 25. Tất cả các giáo viên của trường, cuối học kỳ và cuối năm học, đều được dự bình bầu theo các danh hiệu thi đua đã được Bộ Giáo dục quy định: giáo viên bổ túc văn hoá tiên tiến, giáo viên bổ túc văn hoá dạy giỏi… Danh hiệu lao động tiên tiến và chiến sĩ thi đua của ngành bổ túc văn hoá chỉ tặng cho các giáo viên chuyên trách và một số giáo viên kiêm chức có thành tích bổ túc văn hoá xuất sắc, đã đóng góp nhiều công sức cho phong trào bổ túc văn hoá của đơn vị. Những giáo viên kiêm chức khác sẽ được tham khảo thích đáng thành tích tham gia giảng dạy bổ túc văn hoá khi dự bình bầu lao động tiên tiến và chiến sĩ thi đua chung của cả đơn vị.
Điều 26. Cuối học kỳ và năm học, được sự đồng ý của thủ trưởng đơn vị, hiệu trưởng đề nghị cơ quan giáo dục cấp bằng khen và giấy khen cho các cá nhân đạt danh hiệu thi đua (ghi trong điều 25), đồng thời trích một phần kinh phí của trường (có thể đề nghị trích quỹ xí nghiệp hoặc quỹ công đoàn) để chi cho việc thưởng thi đua cuối năm. Mức thưởng vật chất cho lao động tiên tiến và chiến sĩ thi đua nên bảo đảm tương đương với mức thưởng quy định chung hiện nay cho lao động tiên tiến và chiến sĩ thi đua ở trường phổ thông.
Điều 27. Những học viên có động cơ học tập đúng đắn, có thành tích học tập tốt và có cố gắng xây dựng trường, lớp sẽ được bình bầu là học viên bổ túc văn hoá tiên tiến, học viên bổ túc văn hoá giỏi, được nhà trường và các cấp giáo dục khen thưởng thích đáng. Lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể coi việc học bổ túc văn hoá tốt là một tiêu chuẩn bình bầu thi đua cuối năm.
Điều 28. Những giáo viên vi phạm nội quy nhà trường, không làm tròn trách nhiệm và mắc những khuyết điểm về chính trị trong giảng dạy sẽ bị thi hành kỷ luật tuỳ theo lỗi nặng nhẹ: ban giám hiệu phê bình trước hội đồng nhà trường, quyết định không cho giảng dạy, v.v… Nếu giáo viên bị kỷ luật là người ở ngoài đơn vị thì thông báo cho nơi làm việc của giáo viên đó biết.
Những học viên vi phạm nội quy nhà trường, tuỳ theo lỗi nặng nhẹ sẽ bị phê bình trước lớp, cảnh cáo trước toàn trường hoặc đình chỉ tạm thời việc học tập và thông báo cho cơ sở sản xuất, công tác của những học viên đó biết.
CHƯƠNG IX
TÀI CHÍNH VÀ CƠ SỞ VẬT CHẤT
Điều 29. Kinh phí của trường bổ túc văn hoá tại chức chủ yếu là tiền thu học phí do học viên đóng hàng tháng. Ban giám hiệu căn cứ vào yêu cầu xây dựng, phát triển và quy mô của trường để đề nghị thủ trưởng đơn vị (hoặc cơ quan giáo dục địa phương) duyệt mức học phí theo quy định chung sau đây:
– Ở cấp 1: từ 0đ40 đến 0đ60,
– Ở cấp 2: từ 0đ60 đến 0đ80,
– Ở cấp 3: từ 0đ80 đến 1đ00.
Ngoài khoản thu học phí, còn có những khoản trợ cấp cho bổ túc văn hoá lấy ở quỹ xí nghiệp, quỹ công đoàn (thông tư 186-TTg ngày 2-7-1971 của Phủ Thủ tướng) hoặc kết quả lao động xã hội chủ nghĩa của học viên.
Điều 30. Các khoản thu ghi ở điều 29 chỉ dùng để chi cho những việc sau đây:
1. Thù lao cho giáo viên kiêm chức. Mức thù lao quy định như sau:
– 0đ30 cho 1 giờ dạy ở cấp 1;
– Từ 0đ40 đến 0đ60 cho 1 giờ dạy ở cấp 2;
– 0đ60 đến 0đ80 cho 1 giờ dạy ở cấp 3.
(Thông tư số 54-TT/LB ngày 15-12-1961 của Liên Bộ Tài chính – Giáo dục).
Một giờ dạy bao gồm cả các khâu: chuẩn bị bài, giảng trên lớp và chấm bài.
2. Thù lao cho những uỷ viên ban giám hiệu (trừ giáo viên chuyên trách làm hiệu phó) thực sự làm công tác quản lý trường bổ túc văn hoá ngoài giờ lao động, cụ thể là: thực sự làm việc cho trường bổ túc văn hoá 2 tối trong một tuần lễ, kể cả thù lao dạy một số giờ nhất định và làm những công việc khác của nhà trường (đã quy định trong điều 11 của quy chế này), mức thù lao cho một uỷ viên giám hiệu khoảng từ 10đ00 đến 25đ00 một tháng, tuỳ theo cấp học và quy mô của trường:
– Hiệu trưởng cấp 1 từ 12đ00 đến 14đ00,
– Hiệu phó cấp 1 từ 10đ00 đến 12đ00,
– Hiệu trường cấp 2 từ 15đ00 đến 18đ00,
– Hiệu phó cấp 2 từ 13đ00 đến 16đ00,
– Hiệu trưởng cấp 3 từ 20đ00 đến 25đ00,
– Hiệu phó cấp 3 từ 18đ00 đến 20đ00.
Những uỷ viên ban giám hiệu không phải là hiệu trưởng, hiệu phó của cấp nào được hưởng thù lao ngang mức thù lao tối thiểu của hiệu phó cấp đó. Để bảo đảm chất lượng công tác, các uỷ viên ban giám hiệu (không kể uỷ viên là giáo viên chuyên trách) không được phụ trách một lúc hai trường. Nếu một uỷ viên nào, do yêu cầu của phong trào và quyết định của tập thể ban giám hiệu, phải làm tăng buổi (quá hai buổi quy định) thì mỗi buổi làm tăng đó được tính thêm thù lao, ngang mức thù lao cho 2 tiết giảng dạy ở cấp 2.
3. Thù lao cho những công lao công phụ động ở các trường lớn (phục cụ nước uống, quét dọn, trông xe đạp …) mỗi tối từ 1 đồng đến 1 đồng hai hào.
4. Mua sắm và chi phí phục vụ giảng dạy và học tập (sách giáo khoa, sách tham khảo, sổ sách của trường lớp, văn phòng phẩm cho giáo viên và ban giám hiệu, đồ dùng dạy học, tiền điện, nước, v.v…).
5. Thưởng thi đua cuối năm.
Điều 31. Ban giám hiệu phải phân công một uỷ viên phụ trách thu và giữ tiền, một uỷ viên phụ trách chi, có biên lai, sổ sách thu chi đúng nguyên tắc tài chính. Kế hoạch thu chi phải được tập thể ban giám hiệu thông qua, phải thực hiện đúng nguyên tắc quản lý tiền mặt. Cuối mỗi học kỳ và cuối mỗi năm học, các uỷ viên phụ trách tài chính phải báo cáo công khai tình hình thu chi trước hội đồng nhà trường, báo cáo lãnh đạo đơn vị mở trường và cơ quan giáo dục địa phương biết. Sổ sách, chứng từ thu chi phải được lưu đầy đủ. Khi thay đổi người phụ trách tài chính, phải có sự bàn giao chu đáo. Ban giám hiệu phải thường xuyên kiểm tra tài chính của nhà trường và báo cáo về tình hình tài chinh cho cấp quản lý liền trên (lãnh đạo đơn vị ra quyết định mở trường và cơ quan giáo dục địa phương trực tiếp quản lý chuyên môn: Sở, Ty giáo dục hoặc Phòng giáo dục khu phố, huyện, thị xã). Các cấp quản lý này có quyền thanh tra tài chính của trường khi cần thiết.
Cần bảo đảm cân đối giữa thu và chi trong từng năm học, nếu đã tận thu học phí mà chưa đủ chi thì đề nghị trích quỹ xí nghiệp hoặc quỹ công đoàn cơ sở. Nếu đã chi các khoản nói trên trong điều 30 mà còn thừa thì phải giữ lại để chi cho năm học sau, tuyệt đối không được sử dụng số tiền thừa đó một cách vô nguyên tắc như liên hoan, chia cho giáo viên, v.v… Khi nhà trường giải thể, toàn bộ tài chính và tài sản của nhà trường phải nộp cho Nhà nước.
Điều 32. Trường bổ túc văn hoá tại chức của cán bộ, công nhân cần tổ chức quản lý cơ sở vật chất của trường thật chu đáo, chặt chẽ, nếu có điều kiện thì phấn đấu xây dựng cơ sở vật chất riêng cho mình (trường sở, bàn ghế, đồ dùng dạy học …). Phải có sổ sách về tài sản chung, số đã tiêu hao hoặc mất.
Trường phổ thông và sư phạm có trách nhiệm cho trường bổ túc văn hoá mượn phòng học và đồ dùng dạy học. Trường bổ túc văn hoá phải có trách nhiệm bảo quản tốt phòng học, đồ dùng dạy học của trường phổ thông và sư phạm, khi cần thiết có thể cùng chi với trường phổ thông (hoặc trường sư phạm) về sửa chữa, về vật liệu tiêu thụ, nhưng trường phổ thông (hoặc sư phạm) không được thu tiền thuê trường bất cứ dưới hình thức nào. Nếu sử dụng các loại thiết bị với trường phổ thông (hoặc sư phạm) thì phải có tính toán bù các khoản tiêu hao và trả thêm các khoản tiêu thụ (như: hoá chất, điện).
Điều 33. Quy chế này có hiệu lực kể từ ngày ban hành. Các quy định trước đây trái với quy chế này đều không có giá trị nữa.
Reviews
There are no reviews yet.