NGHỊ QUYẾT
VỀ NHIỆM VỤ NĂM 1995
QUỐC HỘI
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Căn cứ vào Điều 84 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Sau khi xem xét báo cáo của Chính phủ về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 1994 và phương hướng nhiệm vụ năm 1995, báo cáo công tác của Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao, báo cáo thẩm tra và thuyết trình của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, ý kiến đại biểu Quốc hội và báo cáo tổng hợp ý kiến cử tri cả nước;
QUYẾT NGHỊ:
Quốc hội tán thành báo cáo của Chính phủ về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 1994, phương hướng, nhiệm vụ năm 1995, báo cáo của Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Quốc hội nhấn mạnh một số vấn đề sau đây:
I- ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH NĂM 1994
Phát huy kết quả của các năm trước, năm 1994, nhân dân ta tiếp tục phấn đầu đạt được những thành tựu mới: tình hình kinh tế – xã hội có thêm những chuyển biến tích cực, quốc phòng, an ninh được giữ vững, quan hệ đối ngoại và hợp tác quốc tế được mở rộng, đời sống của số đông nhân dân có bước cải thiện; mở ra triển vọng đạt và vượt nhiều chỉ tiêu mà Nghị quyết Quốc hội đã đề ra.
Những thành tựu nói trên đã tạo thuận lợi cho việc hoàn thành vượt mức kế hoạch 5 năm 1991-1995 và tạo đà cho sự phát triển trong những năm tiếp theo.
Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta nhìn chung vẫn còn nhiều mặt yếu kém: ngân sách Nhà nước vẫn bội chi lớn, công tác điều hành tài chính còn nhiều nhược điểm, mức đầu tư phát triển thấp, khả năng kiềm chế lạm phát chưa thật vững chắc. Kết quả việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu còn hạn chế. Các tệ nạn xã hội chậm được khắc phục. Bộ máy Nhà nước còn cồng kềnh, kém hiệu lực. Kỷ cương trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội còn lỏng lẻo. Việc thủ tục hành chính phiền hà chậm được sửa đổi. Việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân còn chậm. Bên cạnh đó, thiên tai đã gây thiệt hại nặng ở nhiều địa phương và để lại hậu quả cho năm 1995 và nhiều năm sau.
Từ tình hình trên và trước những yêu cầu mới, những thời cơ và thách thức mới, Quốc hội quyết nghị nhiệm vụ và chỉ tiêu chủ yếu của năm 1995 như sau:
II- PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ CHUNG VÀ CHỈ TIÊU NĂM 1995
1- Phương hướng, nhiệm vụ năm 1995 là:
Tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, đưa đất nước chuyển sang thời kỳ phát triển mới với tộc độ cao hơn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trên cơ sở phát huy có hiệu quả mọi tiềm năng của đất nước, thực hành tiết kiệm, đẩy nhanh tốc độ cải cách kinh tế gắn với cải cách hành chính, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lành mạnh hoá tình hình tài chính – tiền tệ. Bảo đảm sự phát triển hài hoà giữa kinh tế và văn hoá – xã hội. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, chống buôn lậu. Giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh. Mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác quốc tế.
2- Những chỉ tiêu chủ yếu của năm 1995 là:
– Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng: 9%-10%.
– Giá trị sản lượng nông nghiệp tăng: 4,5% – 5%.
– Sản lượng lương thực đạt: 26 triệu – 26,5 triệu tấn.
– Giá tri sản lượng công nghiệp tăng: 13% – 14%.
– Giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng: 25%.
– Kiềm chế lạm phát ở mức 10%.
III- CÁC NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHÍNH
1- Về kinh tế:
a) Đổi mới hơn nữa công tác kế hoạch hoá, bảo đảm định hướng đưa nền kinh tế theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Tiến hành tổng kết tình hình thực hiện kế hoạch 5 năm 1991-1995. Tích cực triển khai xây dựng kế hoạch 5 năm (từ năm 1996 đến năm 2000) bảo đảm phát huy lợi thế và tiềm năng của đất nước, thực hiện có hiệu quả các mục tiêu của chiến lượng phát triển kinh tế – xã hội.
Tiếp tục xây dựng và hoàn chỉnh quy hoạch các vùng kinh tế trọng điểm, các ngành và các khu công nghiệp tập trung. Tích cực chuẩn bị các dự án đầu tư lớn, những công trình then chốt trong kế hoạch 5 năm tới. Nghiên cứu xây dựng phương án phòng, chống lũ, lụt cho đồng bằng sông Cửu Long và những vùng thường xuyên bị lũ, lụt đe doạ.
b) Về Tài chính – tiền tệ:
Xây dựng chính sách tài chính quốc gia. Phấn đấu tăng thu trên cơ sở mở rộng và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, khai thác và quản lý tốt nguồn thu, có chính sách tạo thêm và nuôi dưỡng nguồn thu. Tiết kiệm hơn nữa chi cho tiêu dùng, chi quản lý hành chính để tăng vốn cho đầu tư phát triển; phấn đấu giảm bội chi ngân sách, tiến tới cân bằng thu chi và có tích luỹ. Kiểm soát chặt chẽ việc cung ứng tiền tệ, điều chỉnh cung cầu theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu sản xuất, kinh doanh và tăng trưởng kinh tế, vừa có tác dụng kiềm chế lạm phát. Tiếp tục xoá bao cấp qua vốn, qua giá với cách làm và bước đi phù hợp. Điều chỉnh tỷ giá hối đoái linh hoạt nhằm khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu theo định hướng kế hoạch. Có chính sách lãi suất hợp lý, huy động được tiền gửi, khuyến khích vay vốn đầy tư phát triển; tăng tín dụng đầu tư trung hạn và dài hạn cho sản xuất nông nghiệp.
Tiếp tục xử lý tốt chế độ phân cấp quản lý ngân sách giữa trung ương và địa phương để vừa bảo đảm vai trò quản lý thống nhất của trung ương đối với nền tài chính quốc gia, vừa phát huy tính chủ động và trách nhiệm của địa phương. Cải tiến khâu phân bổ thu, chi ngân sách cho các địa phương, bảo dảm tính ổn định, dân chủ công khai. Cấp ngân sách cho các địa phương kịp thời và thuận tiện; tăng cường kiểm tra, giám sát việc quản lý chi tiêu theo đúng chính sách, chế độ, chống lãng phí, tham ô, sử dụng vốn sai mục đích.
Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn; có chính sách và cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp và nhân dân đầu tư phát triển sản xuất. Triển khai Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Sơ kết, đánh giá việc thực hiện Luật đầu tư nước ngoài để có những sửa đổi, bổ sung kịp thời.
Phân bổ hợp lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ngân sách cho đầu tư phát triển. Cần tập trung vốn cho những công trình trọng điểm, sớm đem lại hiệu quả. Chấm dứt tính trạng đầu tư phân tán, thì công kéo dài gây lãng phí, thất thoát. Chấn chỉnh cơ chế quản lý vốn ngân sách và hoàn chỉnh cơ chế tín dụng cho đầu tư xây dựng cơ bản; xây dựng cơ chế “tự vay, tự trả” trong lĩnh vực đầu tư phát triển.
Tiếp tục củng cố và đổi mới hoạt động của ngân hàng, tài chính đáp ứng yêu cầu của sản xuất, kinh doanh và huy động vốn. Đẩy nhanh việc hình thành thị trường vốn, tạo điều kiện cho các nguồn vốn sớm phát huy tác dụng.
c) Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế sản xuất của từng vùng và của quốc gia. Bên cạnh việc đầu tư có trọng điểm nhằm xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, cần tập trung xây dựng một số cơ sở sản xuất, kinh doanh trọng yếu. Quan tâm đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn. Phát triển toàn diện nông – lâm – ngư nghiệp, đặc biệt cọi trọng công nghiệp chế biến, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Đầu tư có chọn lọc vào các ngành then chốt như ngành điện, dầu khí, thép, cơ khí chế tạo, xi măng, các vật liệu xây dựng khác. Chú trọng đầu tư chiều sâu, nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế. Quan tâm phát triển doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ.
d) Về kinh tế đối ngoại và xuất, nhập khẩu:
Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Khẩn trương hoàn thiện chính sách, cải thiện môi trường đầu tư; nhanh chóng xoá bỏ các khâu trung gian, các thủ tục hành chính phiền hà, các tệ nạn tiêu cực trong lĩnh vực hợp tác và đầu tư; khuyến khích đầu tư theo hướng ưu tiên cho sản xuất, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệp quản lý. Cần tính toán kỹ bước đi, lĩnh vực, quy mô và hình thực hợp tác, liên doanh với nước ngoài, bảo đảm hiệu quả và lợi ích lâu dài của đất nước.
Xây dựng hệ thống chính sách khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu. Quản lý chặt chẽ hoạt động nhập khẩu; coi trọng việc nhập khẩu máy móc, thiết bị cho sản xuất, đổi mới công nghệ; hạn chế việc nhập khẩu hàng tiêu dùng chưa thật cần thiết hoặc trong nước đã sản xuất được; phấn đấu để tiến tới cân bằng xuất, nhập khẩu và tăng quỹ dự trữ ngoại tệ. Phát triển mạnh du lịch và các dịch vụ thu ngoại tệ khác.
e) Về quan hệ sản xuất:
Tập trung chỉ đạo việc chỉnh đốn tổ chức, cải tiến quản lý và xử lý vấn đề vốn cho các cơ sở kinh tế quốc doanh nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh và bảo đảm vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế này. Từng bước thực hiện việc bỏ chế độ Bộ chủ quản, cấp hành chính chủ quản. Khôi phục và phát triển thương mại quốc doanh ở những ngành hàng và những địa bàn trọng yếu nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, đủ sức hỗ trợ việc chuyển đổi cơ cầu kinh tế nông nghiệp và can thiệp có hiệu quả vào thị trường khi cần thiết.
Có hình thức và biện pháp hợp lý, tiếp tục xử lý các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ kéo dài. Sơ kết rút kinh nghiệm việc thí điểm cổ phần hoá để tiếp tục triển khai có hiệu quả và đúng hướng.
Tổng kết, đánh giá tình hình kinh tế hợp tác, nhân rộng các mô hình làm ăn có hiệu quả và hỗ trợ cho các loại hình kinh tế này phát triển. Hướng dẫn, giúp đỡ các hợp tác xã, các hộ xã viên, các hộ cá thể về khoa học, kỹ thuật, về vốn và tiếp thị.
Khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển theo định hướng có lợi cho quốc tế, dân sinh.
2- Về khoa học, công nghệ và môi trường:
Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Gắn hoạt động khoa học và công nghệ với sản xuất, đời sống. Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ. Có chính sách khuyến khích các nhà khoa học gắn bó với sản xuất. Tiếp thu có hiệu quả các tiến bộ khoa học và công nghệ của nước ngoài góp phần từng bước nâng cao trình độ công nghệ, năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Đổi mới công tác quản lý khoa học và công nghệ theo hướng dẫn các cơ quan khoa học với sản xuất và đào tạo.
Ứng dụng rộng tãi và có hiệu quả công nghệ thông tin trong công tác cải cách hành chính và trong các ngành kinh tế, trước kết là trong các ngành tài chính, ngân hàng. ứng dụng mạnh mẽ công nghệ sinh học để chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nhằm tạo ra nhiều giống cây trồng, vật nuôi, có năng suất và chất lượng cao.
Trong sự nghiệp phát triển kinh tế, kiên quyết bảo vệ môi trường, đáp ứng yêu cầu phát triển trước mắt và lâu dài. Triển khai thực hiện Luật bảo vệ môi trường; hình thành mạng lưới kiểm soát môi trường từ trung ương đến cơ sở, xử lý nghiêm những hành vi phá hoạt môi trường, phá vỡ cảnh quan thiên nhiên, cấu trúc đô thị.
3- Về văn hoá – giáo dục:
Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Phát triển các loại hình trường, lớp bán công và dân lập, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học của nhân dân. Đảm bảo các điều kiện nhất là đội ngũ giáo viên để thực hiện mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học và xoá mù chữ; phấn đấu bỏ dần lớp học ca 3 và trường lớp tre lá; củng cố và mở rộng các trường phổ thông dân tộc nội trú. Sắp xếp hợp lý các trường đại học và chuyên nghiệp; từng bước đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục và đào tạo; chấn chỉnh đào tạo tại chức. Chăm lo ngành sư phạm; thực hiện chế độ bồi dưỡng giáo viên; có chính sách đãi ngộ thoả đáng đối với giáo viên giỏi, giáo viên vùng cao, vùng sâu, biên giới, hải đảo… Hoàn chỉnh cơ chế phân công, phân cấp quản lý ngân sách và cán bộ trong các lĩnh vực văn hoá, giáo dục trong cả nước.
Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc. Tăng cường quản lý Nhà nước trong lĩnh vực văn hoá, thông tin; xử lý nghiêm những vi phạm về quản lý và những hành vi lưu hành văn hoá phẩm có nội dung xấu, đặc biệt là phim, băng hình mang tính kích động bạo lực và khiêu dâm. Đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng văn hoá, thông tin cơ sở, xây dựng gia đình văn hoá. Tiếp tục nghiên cứu, cải tiến chế độ, chính sách đối với văn nghệ sĩ và những người hoạt động trong lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật. Chủ động trong mở rộng giao lưu văn hoá và thông tin đối ngoai. Tổ chức tốt và tiết kiệm các hoạt động kỷ niệm những ngày lễ lớn trong năm 1995. Nâng cao chất lượng các chương trình phát thành, truyền hình; mở rộng diện phủ sóng để đảm bảo cho nhân dân trong cả nước được xem những nội dung chính của chương trình truyền hình Trung ương.
Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thể dục, thể thao. Chú trọng thể thao thành tích cao trên cơ sở mở rộng phong trào thể dục, thể thao quần chúng. Tổ chức tốt đại hội thể dục, thể thao toàn quốc năm 1995, tích cực chuẩn bị cho việc tham dự đại hội thể theo Đông Nam á.
Khơi dậy tiềm năng của cộng đồng và gia đình đối với việc thực hiện các mục tiêu bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Có những chính sách và biện pháp giáo dục thanh niên, giúp thành niên lập nghiệp, giải quyết việc làm.
4- Về các vấn đề xã hội và y tế:
Bảo đảm nguồn vốn cho các chương trình quốc gia nhằm tạo việc làm, thu hút nhiều lao động thông quá các dự án nhỏ, chú ý các vùng cao, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng, kháng chiến cũ. Đẩy mạnh phong trao “xoá đói giảm nghèo”; dành một phần ngân sách để chủ động khắc phục hậu quả ở các vùng xảy ra thiên tai. Triển khai thực hiện tốt Bộ luật lao động, Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng và Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Bảo đảm và từng bước nâng cao đời sống các đối tượng chính sách xã hội. Chính phủ nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chính sách, chế độ cho cán bộ cấp xã, phường và điều chỉnh những bất hợp lý trong quá trình thực hiện chính sách tiền lương mới trên cơ sở tổng quỹ lương đã được Quốc hội thông qua.
Bảo đảm thực hiện chương trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu, nhất là việc chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, người cao tuổi. Củng cố và phát triển trạm y tế cơ sở, nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, đặc biệt quan tâm tới việc xoá “xã trắng” về y tế. Tích cực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ y tế; thực hiện chính sách đãi ngộ đối với cán bộ y tế cơ sở. Đầu tư kinh phí kịp thời cho việc phòng, chữa bệnh sốt rét, bệnh phong, lao và một số bệnh khác; cung cấp đủ muối iốt cho chương trình phòng, chống bệnh bướu cổ. Có các biện phép để người nghèo được khám, chữa bệnh giảm, miễn phí. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các cơ sở y tế; xây dựng 2 trung tâm y tế trình độ cao ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Quản lý tốt các phòng khám, điều trị, nhà thuốc tư nhân. Xã hội hoá các hoạt động y tế – xã hội bằng nhiều biện pháp và hình thức thích hợp. Nhanh chóng khắc phục hiện tượng tiêu cực trong khám, chữa bệnh. Đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược dân số – kế hoạch hoá gia đình đến năm 2000; chú trọng công tác giáo dục, truyền thống để tạo ra bước chuyển biến lớn về nhận thức; cung cấp đủ kinh phí và dịch vụ kỹ thuật để bảo đảm thực hiện việc giảm tỷ lệ phát triển dân số 0,06%/năm.
Tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng, chống các tệ nạn xã hội, trước hết là các tệ nghiện hút, tiêm chích ma tuý, mại dạm, cờ bạc; có các biện pháp tích cực giáo dục, chữa trị kết hợp với dạy nghề, tạo việc làm cho các đối tượng này; nghiêm trị bọn chủ chứa, bọn môi giới mại dâm, bọn tổ chức dùng chất ma tuý. Tăng đầu tư và thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp phòng, chống lây nhiễm HIV/AIDS.
5- Về quốc phòng, an ninh:
Động viên toàn dân, toàn quân giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; không ngừng nâng cao cảch giác cách mạng, bảo vệ an ninh quốc gia.
Phát huy sức mạnh tổng hợp tích cực xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân đi vào chiều sâu. Kết hợp chặt chẽ kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội với quốc phòng, an ninh, củng cố các khu vực phòng thủ, các vùng biển, đảo, biên giới, các phòng tuyến an ninh và các cơ sở vững mạnh toàn diện. Nâng cao chất lượng các cơ quan và cán bộ chuyên trách giúp các cấp, các ngành triển khai nhiệm vụ quốc phòng, an ninh theo chức năng. Thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội.
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật; động viên đông đảo quần chúng kết hợp chặt chẽ với các lực lượng bảo vệ pháp luật trong việc giữ gìn trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội, phòng, chống tội phạm và các tệ nạn xã hội.
Tích cực nâng cao chất lượng tổng hợp của các lực lượng vũ trang. Giáo dục Luật nghĩa vụ quân sự trong nhân dân, nhất là cho thành niên. Tăng cường đầu tư cho công nghiệp quốc phòng, các học viện và các trường của quân đội, công an.
Tăng cường công tác bảo đảm kỹ thuật Xây dựng lực lượng vũ trang chính quy, trong sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân. Từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang.
6- Về các vấn đề dân tộc thiểu số và miền núi:
Quan tâm đầu tư thích đáng cho vùng các dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó chú ý đầu tư về cơ sở hạ tầng như đường giao thông, điện, thông tin liên lạc, nước tưới và nước sinh hoạt… và đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế để khai thác thế mạnh của miền núi; đẩy mạnh việc giao đất, giao rừng cho các hộ gia đình. Triển khai chương trình tổng thể vùng cao phía Bắc, kết hợp việc phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh. Cải tiến thủ tục xét duyệt và cấp vốn cho các chương trình mục tiêu liên quan đến việc phủ xanh đồi, núi trọc, bảo vệ rừng, phát triển cây công nghiệp và chăn nuôi. Thực hiện tốt định canh, định cư, giải quyết một bước cơ bản vấn đề di, định cư. Nghiên cứu xây dựng quỹ hỗ trợ phát triển kinh tế vùng dân tộc thiểu số và miền núi với những điều kiện vay vốn ưu đãi.
Tiếp tục thực hiện tốt một số chính sách hỗ trợ cho vùng cao, biên giới khó khăn, vùng lòng hồ, vùng đồng bào Khơme bị lũ, lụt nặng, vùng xoá bỏ cây thuộc phiện; đầu tư nghiên cứu biện pháp thay thế cây thuốc phiện.
Tích cực đào tạo đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số và xây dựng hệ thống chính sách để khuyến khích giáo viên, cán bộ y tế, các cán bộ khoa học, kỹ thuật tích cực tham gia sự nghiệp phát triển văn hoá, giáo dục, y tế miền núi.
7- Về đối ngoại:
Trên cơ sở đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị và hợp tác quốc tế, tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được, ra sức thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở với phương châm đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ. Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để gia nhập các tổ chức khu vực và quốc tế khác. Tăng cường hơn nữa quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. Quan tâm bảo vệ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam ở ngoài nước, phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế. Tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, củng cố vị trí của nước ta ở khu vực và trên thế giới.
8- Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu:
Biến việc thực hiện Nghị quyết của Quốc hội thành cuộc vận động sâu rộng, thu hút đông đảo quần chúng và các tổ chức chính trị, xã hội tham gia nhằm tạo được những chuyển biến thực sự trong năm 1995.
Kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của Bộ máy chỉ đạo công tác đấu tranh chống tham nhũng, chống buôn lậu. Nghiêm trị những kẻ có hành vi tham nhũng, buôn lậu hoặc tiếp tay cho bọn tham nhũng, buôn lậu.
9- Nâng cao hiệu lực bộ máy Nhà nước:
Đẩy mạnh cải cách bộ máy hành chính, chú trọng việc phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cơ quan trong bộ máy Nhà nước, giữa trung ương và địa phương, giữa ngành và lãnh thổ. Xây dựng bộ máy quản lý Nhà nước thực sự trong sạch, tinh gọn và có hiệu lực. Trên cơ sở bảo đảm thắng lợi cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 1994-1999, củng cố bộ máy của chính quyền địa phương, nhất là cấp cơ sở. Gấp rút đào tạo lại và đào tạo mới đội ngũ cán bộ, viên chức Nhà nước đáp ứng yêu cầu quản lý theo cơ chế mới. Đưa ra khỏi bộ máy những viên chức kém năng lực, kém phẩm chất. Sớm ban hành Pháp lệnh công chức.
Sử dụng có hiệu quả các công cụ pháp luật, kế hoạch, tài chính, tiền tệ để nâng cao hiệu lực của công tác quản lý Nhà nước, khắc phục tình trạng yếu kém trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội, thi hành pháp luật.
Xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng và nhân dân, lắng nghe và tiếp thu ý kiến của nhân dân để kịp thời sửa đổi cơ chế, chính sách, hệ thống pháp luật và công tác quản lý, điều hành. Đổi mới và nâng cao hiệu quả việc giải quyết đơn, thư khiếu tố của công dân.
Chấn chỉnh và tăng cường các cơ quan bảo vệ pháp luật thực sự trong sạch, vững mạnh để làm tốt công tác đấu tranh bảo vệ pháp luật, phòng chống tội phạm. Nâng cao chất lượng công tác thanh tra, điều tra, kiểm sát và xét xử; tổ chức tốt việc thi hành án.
Xúc tiến việc thành lập cơ quan tài phán hành chính, góp phần chống tệ quan liêu cửa quyền, chống sự lộng hành và vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội. Từng bước bổ sung các đại biểu chuyên trách cho Quốc hội và các đoàn đại biểu Quốc hội. Đổi mới và cải tiến công tác thông tin phục vụ đại biểu Quốc hội.
Tổng kết, rút kinh nghiệm hoạt động giám sát nhằm sớm xây dựng và ban hành Quy chế giám sát.
IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Chính phủ, các cơ quan Nhà nước hữu quan, các ngành, các cấp có kế hoạch cụ thể để chỉ đạo việc triển khai các nội dung của Nghị quyết này theo chức năng và nhiệm vụ của mình; tăng cường kiểm tra, định kỳ sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm để đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết. Chính phủ tổng hợp đầy đủ tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 1994 và những vấn đề lớn nảy sinh trong quá trình triển khai kế hoạch 1995 để báo cáo Quốc hội trong kỳ họp tới.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội tăng cường hoạt động giám sát việc thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ quan trọng mà Quốc hội đã đề ra.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên tăng cường giám sát các cơ quan Nhà nước, đồng thời động viên các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia thực hiện thắng lợi Nghị quyết về nhiệm vụ năm 1995.
Quốc hội kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả nước, người Việt Nam ở nước ngoài phát huy truyền thống đoàn kết, nêu cao ý thức, tự cường, nỗ lực vượt bậc hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ năm 1995. Tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Nghị quyết này đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 1 tháng 11 năm 1994.
Reviews
There are no reviews yet.