CHÍNH PHỦ Số: 149/NQ-CP |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm 2020 |
NGHỊ QUYẾT
Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 9 năm 2020
_________
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 19 tháng 6 năm 2015; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều, của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22 tháng 11 năm 2019;
Căn cứ Nghị định số 138/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 10 năm 2016 của Chính phủ ban hành Quy chế làm việc của Chính phủ;
Trên cơ sở thảo luận của các Thành viên Chính phủ và kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 9 năm 2020, tổ chức vào ngày 02 tháng 10 năm 2020,
QUYẾT NGHỊ:
1. Về tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP; tình hình kinh tế – xã hội tháng 9 và 9 tháng năm 2020
Chính phủ thống nhất đánh giá: Với sự quyết tâm, nỗ lực, đồng lòng của toàn hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân cả nước, đặc biệt là tinh thần trách nhiệm cao, sự cố gắng lớn của các lực lượng y tế, quân đội, công an và các địa phương, chúng ta đã kiểm soát tốt đợt xuất hiện dịch Covid-19 lây lan trong cộng đồng lần thứ hai tại một số địa phương, tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế, xã hội của nước ta dần phục hồi, góp phần thực hiện thắng lợi “mục tiêu kép”. Tốc độ tăng GDP 9 tháng đạt 2,12%, trong đó quý III đạt 2,62%, được nhiều tổ chức quốc tế đánh giá đứng thứ hai khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và đứng đầu ASEAN trong khi nhiều nước và các đối tác quan trọng của ta đều tăng trưởng âm. Kinh tế vĩ mô duy trì ổn định; lạm phát được kiểm soát; chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân tiếp tục xu hướng giảm dần, 9 tháng chỉ tăng 3,85%. Các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. Chính sách tiền tệ được điều hành chủ động, linh hoạt; mặt bằng lãi suất tiếp tục giảm, góp phần hỗ trợ cho nền kinh tế; tỷ giá, thị trường ngoại tệ ổn định; dự trữ ngoại hối tăng; thanh toán không dùng tiền mặt được đẩy mạnh. Thị trường chứng khoán khởi sắc trở lại. Xuất khẩu 9 tháng đạt gần 203 tỷ USD, tăng 4,2% so với cùng kỳ; xuất siêu gần 17 tỷ USD, mức cao nhất trong nhiều năm qua, trong đó khu vực kinh tế trong nước tiếp tục là điểm sáng, tăng trên 20%; có 30 mặt hàng xuất khẩu trên 1 tỷ USD và 5 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện quý III tăng 7,4% so với cùng kỳ, đặc biệt vốn khu vực nhà nước tăng 21,5%, trong đó tốc độ tăng vốn thực hiện từ ngân sách nhà nước tháng 9 và 9 tháng đều đạt mức cao nhất trong nhiều năm qua, đạt trên 300 nghìn tỷ đồng, bằng 59,7% kế hoạch năm và tăng 33,3% so với cùng kỳ, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế. Trong bối cảnh đầu tư toàn cầu suy giảm mạnh nhưng trong 9 tháng thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vẫn đạt 21,2 tỷ USD. Cả nước có gần 99 nghìn doanh nghiệp thành lập mới; tổng số vốn đăng ký tăng 10,7% so với cùng kỳ; hầu hết các doanh nghiệp đều đánh giá xu hướng kinh doanh sẽ tốt hơn trong thời gian tới. Các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế có xu hướng phục hồi mạnh mẽ, rõ nét. Sản xuất nông nghiệp tuy gặp nhiều khó khăn do thiên tai, dịch bệnh nhưng với nhiều giải pháp ứng phó kịp thời, hiệu quả nên vẫn duy trì mức tăng khá 1,84%, lúa được mùa, được giá, xuất khẩu gạo đạt 2,5 tỷ USD; sản lượng nhiều mặt hàng nông sản khác tăng mạnh; tiếp tục thể hiện vai trò bệ đỡ của nền kinh tế trong khó khăn, bảo đảm đủ nguồn cung lương thực, thực phẩm thiết yếu. Sản xuất công nghiệp tăng 2,69% so với cùng kỳ. Hoạt động thương mại, dịch vụ dần phục hồi, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch tiêu dùng quý III năm 2020 tăng 14,4% so với quý trước và tăng 4,5% so với cùng kỳ. Chỉ số nhà quản trị nhà mua hàng (PMI) của Việt Nam do Nikkei đánh giá tăng 52,2 điểm (tháng 8 là 45,7 điểm), thể hiện rõ nét xu hướng phục hồi của nền kinh tế. Nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo được chú trọng trong nhiều ngành, lĩnh vực trong bối cảnh nền kinh tế trong trạng thái bình thường mới. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, lao động, việc làm, an sinh xã hội và chăm sóc sức khỏe nhân dân, thông tin truyền thông được quan tâm thực hiện tốt. Thực hiện tốt kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông. Đời sống nhân dân được bảo đảm, quan tâm hơn đến đời sống người dân vùng nông thôn, miền núi, đồng bào dân tộc, tỷ lệ hộ thiếu đói giảm 75,5% so với cùng kỳ. Nhiều hoạt động kỷ niệm các ngày Lễ lớn của đất nước được tổ chức trang trọng, ý nghĩa. Quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Tai nạn giao thông giảm 3 tiêu chí, cả về số vụ, số người chết và số người bị thương. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục đạt được nhiều kết quả tích cực, đảm nhiệm tốt vai trò Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch AIPA 41, Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc và tích cực hợp tác trong phòng, chống dịch Covid-19. Hình ảnh, vị thế và uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Những kết quả trên đã tạo không khí phấn khởi, đoàn kết, củng cố thêm niềm tin của nhân dân và sự vững mạnh của hệ thống chính trị, đóng góp tích cực cho thành công của Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII.
Bên cạnh những kết quả đạt được, nước ta vẫn còn những hạn chế, bất cập và phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Rủi ro từ dịch bệnh Covid-19 vẫn còn tiềm ẩn. Hoạt động sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, sức chống chịu của một bộ phận doanh nghiệp suy giảm, nhất là các doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ. Một số ngành, lĩnh vực chịu tác động nặng nề của dịch bệnh như công nghiệp, xây dựng, bất động sản, giao thông vận tải, logistics, du lịch… trong khi đó thương mại quốc tế suy giảm và cầu tiêu dùng phục hồi chậm. Một số vấn đề dư luận xã hội quan tâm như: việc tăng giá sách giáo khoa, nhiều sách tham khảo, lạm thu đầu năm học mới; bệnh sốt xuất huyết, bệnh chân tay miệng ở một số nơi có chiều hướng gia tăng; tình trạng ngộ độc thực phẩm gia tăng; tội phạm về ma túy, tổ chức đánh bạc qua mạng, lừa đảo qua mạng, cho vay nặng lãi diễn biến phức tạp trên một số địa bàn…
Để tiếp tục thực hiện thắng lợi “mục tiêu kép”, phấn đấu đạt cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu năm 2020, trong đó tăng trưởng kinh tế đạt từ 2% đến 3%, tạo tiền đề thuận lợi cho việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2021, nhiệm vụ trong những cuối năm 2020 là rất nặng nề, Chính phủ yêu cầu các bộ, cơ quan, địa phương tiếp tục thực hiện quyết liệt, hiệu quả, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra tại các Nghị quyết, Kết luận của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết của Chính phủ và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, nhất là Nghị quyết số: 01/NQ-CP, 02/NQ-CP, 84/NQ-CP, văn bản số 1259/TTg-KTTH ngày 17 tháng 9 năm 2020; trong đó tập trung thực hiện một số nội dung chính sau:
– Các bộ, cơ quan, địa phương, nhất là các thành phố lớn, địa bàn tập trung đông dân cư, đặc biệt là Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh không được chủ quan, lơ là, kiểm soát chặt chẽ các nguồn lây nhiễm, người nhập cảnh và những nơi có nguy cơ lây nhiễm cao như: bệnh viện, phòng khám tư nhân, trường học, cơ sở lưu trú người nhập cảnh, không để dịch Covid-19 bùng phát trở lại trong cộng đồng. Bộ Y tế chủ trì, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương hướng dẫn chi tiết, cụ thể, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ vận dụng các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 phù hợp, bảo đảm an toàn sức khỏe nhân dân, nhà ngoại giao, nhà quản lý, chuyên gia, lao động tay nghề cao làm việc tại Việt Nam. Ban chỉ đạo phòng, chống dịch Covid-19 chỉ đạo các địa phương xử lý ngay những vấn đề gây bức xúc dư luận liên quan đến chi phí cách ly tập trung và cách ly tại khách sạn, bảo đảm mức chi trả phù hợp, công khai và tạo thuận lợi cho người cách ly, kịp thời xử lý hiệu quả những vấn đề phát sinh.
– Đẩy nhanh tiến trình phục hồi kinh tế, tăng cường tự lực, tự cường, có khát vọng vươn lên mạnh mẽ, tận dụng tốt cơ hội kiểm soát được dịch bệnh để phục hồi và phát triển mạnh các hoạt động kinh tế, xã hội, tạo bước tiến mới trong phát triển đất nước. Từng bộ, ngành, địa phương tập trung đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế, nâng cao năng suất, chất lượng, năng lực nộị tại của từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương phù hợp với tình hình đất nước trong trạng thái bình thường mới. Xác định mục tiêu tăng trưởng đối với từng ngành, từng lĩnh vực trong quý IV năm 2020 gắn với giải pháp cụ thể. Xây dựng mô hình chuỗi giá trị gia tăng đối với từng sản phẩm ưu tiên, có lợi thế của từng ngành, từng lĩnh vực. Tiếp tục ưu tiên đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công, nhất là vốn ODA. Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án, công trình trọng điểm, quy mô lớn, có sức lan tỏa nhằm nâng cao năng lực sản xuất. Thu hút mạnh mẽ hơn nữa đầu tư xã hội, bao gồm cả đầu tư tư nhân trong nước và FDI. Đẩy mạnh chuyển đổi số, phát triển kinh tế số phải được coi là ưu tiên quốc gia, tập trung hoàn thiện hành lang pháp lý cho quản lý và phát triển các mô hình kinh doanh mới dựa trên nền tảng công nghệ số. Tiếp tục rà soát, hoàn thiện thể chế, pháp luật để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp. Tăng cường thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng.
– Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động linh hoạt, phối hợp hài hòa với chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng. Tiếp tục thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn trong tiếp cận tín dụng ngân hàng cho người dân và doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh; đồng thời tiếp tục thực hiện các giải pháp hỗ trợ khách hàng vay vốn gặp khó khăn do đại dịch Covid-19.
– Bộ Tài chính cùng các bộ, ngành, địa phương theo dõi sát tình hình giá cả, điều hành chủ động giá các mặt hàng do nhà nước quản lý, góp phần bảo đảm mục tiêu kiểm soát lạm phát dưới 4%. Triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp quản lý thu trong các tháng cuối năm 2020, phấn đấu đạt cao nhất chỉ tiêu thu ngân sách nhà nước; đồng thời triệt để tiết kiệm chi, nhất là chi cho hội họp, công tác, mua sắm trang thiết bị đắt tiền để dành nguồn lực cho phòng, chống dịch, bảo đảm an sinh xã hội và đầu tư phát triển trong điều kiện khó khăn. Tăng cường phối hợp hiệu quả giữa các bộ, ngành, địa phương và các lực lượng chức năng liên quan trong công tạc đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả.
– Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Bộ Tài chính và các bộ, ngành, địa phương thường xuyên theo dõi, rà soát, tích cực tháo gỡ vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công, vốn ODA, vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài; chủ động báo cáo đề xuất Thủ tướng Chính phủ tổ chức kiểm tra các bộ, ngành, địa phương chậm trễ trong giải ngân vốn đầu tư công, nhất là vốn ODA. Chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính và các bộ, cơ quan liên quan khẩn trương đề xuất các chính sách hỗ trợ bổ sung cho các đối tượng gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong tháng 10 năm 2020. Khẩn trương tiếp thu ý kiến góp ý, rà soát kỹ nội dung, hoàn thiện các Báo cáo theo phân công, báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ theo quy định trước khi Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ báo cáo Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 13 và Quốc hội khóa XIV kỳ họp thứ 10.
– Bộ Công Thương cùng các bộ, ngành, địa phương triển khai các giải pháp thúc đẩy phát triển và cơ cấu lại các ngành công nghiệp, dịch vụ, nhất là công nghiệp hỗ trợ theo Nghị quyết số 115/NQ-CP của Chính phủ, khôi phục chuỗi cung ứng. Duy trì các thị trường xuất khẩu chủ lực; tăng cường thực hiện các giải pháp chống gian lận xuất xứ để bảo vệ ngành hàng xuất khẩu trước rủi ro của các vụ kiện chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại từ các nước nhập khẩu; đồng thời tập trung xúc tiến, mở rộng, khai thác hiệu quả các thị trường xuất khẩu tiềm năng; tiếp tục thực hiện các giải pháp đẩy mạnh kích cầu nội nhu, phát triển thị trường nội địa. Thúc đẩy phát triển mạnh thương mại điện tử tạo nền tảng cho thương mại trong nước và xuất khẩu; hoàn thiện công tác xúc tiến, kết nối giao thương trực tuyến giữa các doanh nghiệp với các đối tác trong và ngoài nước; đồng thời hỗ trợ các doanh nghiệp khai thác ứng dụng công nghệ thông tin. Phối hợp, hướng dẫn các bộ, ngành triển khai hiệu quả chương trình hành động thực hiện Hiệp định EVFTA. Các bộ, ngành khẩn trương có văn bản hướng dẫn, cụ thể hóa để hỗ trợ doanh nghiệp khai thác hiệu quả lợi thế của Hiệp định EVFTA.
– Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tập trung chỉ đạo khai thác tốt nhất các thị trường xuất khẩu, nhất là thị trường EU, phấn đấu hoàn thành chỉ tiêu xuất khẩu nông sản cả năm đạt 41 tỷ USD. Theo dõi chặt chẽ tình hình thời tiết, diễn biến thiên tai, chủ động chỉ đạo sản xuất nông nghiệp đạt mục tiêu đề ra, hạn chế thấp nhất thiệt hại do thiên tai. Thúc đẩy sạn xuất, đặc biệt là sản xuất lúa, tái đàn lợn, khai thác và nuôi trồng thủy sản, trồng rừng, khai thác gỗ; tiếp tục kiểm soát tốt dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi; đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, mở cửa thị trường, trong đó có việc tập trung tháo gỡ khó khăn đối với nuôi cá tra.
– Bộ Giao thông vận tải đẩy nhanh công tác triển khai xây dựng các dự án, công trình giao thông, trong đó: phấn đấu cuối năm 2020 đưa vào khai thác, vận hành giai đoạn 1 đối với 02 Dự án cải tạo, nâng cấp đường cất hạ cánh sân bay Nội Bài và Tân Sơn Nhất; khởi công tối thiểu 01 gói thầu dự án cao tốc Mỹ Thuận – Cần Thơ; phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang đôn đốc, chỉ đạo để thông xe kỹ thuật tuyến đường cao tốc Trung Lương – Mỹ Thuận; khánh thành tuyến đường cao tốc Rạch Sỏi – Vàm Cống. Phối hợp với Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Tổng công ty cảng hàng không Việt Nam (ACV) phấn đấu đầu năm 2021 khởi công một số hạng mục của Cảng hang không quốc tế Long Thành. Phối hợp với Bộ Công an tổ chức thực hiện nghiêm túc Nghị định số 100/2019/NĐ-CP của Chính phủ để bảo đảm trật tự an toàn giao thông. Đẩy mạnh triển khai thu phí tự động không dừng.
– Bộ Xây dựng chủ động triển khai thực hiện hiệu quả các giải pháp đồng bộ tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy mạnh mẽ thị trường bất động sản phát triển, trong đó tiếp tục rà soát, hoàn thiện pháp luật liên quan đến hoạt động đầu tư, kinh doanh bất động sản, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất, an toàn, bền vững.
– Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý phát triển vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp, đồng thời thúc đẩy các tập đoàn, tổng công ty tái cấu trúc, đổi mới cách thức quản trị doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước, thực hiện tốt các nhiệm vụ kế hoạch sản xuất kinh doanh đề ra.
– Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh các hoạt động du lịch, nâng cao chất lượng dịch vụ và bảo đảm an toàn; nghiên cứu xây dựng chương trình kích cầu du lịch nội địa với chủ đề du lịch Việt Nam an toàn và hấp dẫn để phục hồi du lịch những tháng cuối năm.
–Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan, địa phương tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ cho các đối tượng gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, đồng thời đơn giản hóa các thủ tục, điều kiện, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Chú trọng phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng cao góp phần nâng cao năng suất lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia, nhất là trong thời kỳ chuyển đổi số.
– Các địa phương phối hợp với Thanh tra Chính phủ, Bộ Công an và các bộ, ngành liên quan rà soát, xử lý dứt điểm các vụ việc phức tạp, kéo dài, không để tình trạng khiếu kiện đông người, gây mất an ninh trật tự, nhất là trong thời gian diễn ra kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIV và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII.
– Bộ Ngoại giao chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan tổ chức tốt Hội nghị cấp cao ASEAN 37 và các hội nghị, diễn đàn cấp cao liên quan. Tiếp tục thực hiện hiệu quả công tác bảo hộ công dân ở nước ngoài, nhất là trong bối cảnh dịch Covid-19.
– Bộ Quốc phòng nắm chắc tình hình, dự báo kịp thời, chính xác các tình huống, nhất là vấn đề biển Đông để có phương án ứng phó phù hợp, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc. Thực hiện tốt nhiệm vụ quân sự, quốc phòng gắn với nhiệm vụ phòng, chống dịch Covid-19.
– Bộ Công an theo dõi sát tình hình, chủ động phương án, kế hoạch đấu tranh với các thế lực thù địch, trấn áp các loại tội phạm, đặc biệt là tội phạm sử dụng công nghệ để lừa đảo, chiếm đoạt tài sản, tội phạm ma túy, bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội. Bảo vệ tuyệt đối an toàn Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 13 và kỳ họp thứ 10 Quốc hội XIV.
– Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo cơ quan thông tấn, báo chí tiếp tục đẩy mạnh thông tin, truyền thông về những kết quả tích cực đạt được trong việc thực hiện “mục tiêu kép” và các giải pháp chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Xử lý nghiêm các trường hợp thông tin không đúng sự thật; kịp thời phản bác lại các thông tin, luận điệu sai trái của các thế lực thù địch. Cùng các bộ, ngành, địa phương đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển Chính phủ điện tử theo Nghị quyết số 17/NQ-CP.
2. Công tác chuẩn bị kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV
Chính phủ yêu cầu:
a) Các thành viên Chính phủ:
– Đề cao trách nhiệm cá nhân, khẩn trương chuẩn bị đầy đủ, chất lượng báo cáo, tài liệu theo phân công gửi Quốc hội trước ngày 10 tháng 10 năm 2020 (trừ các nội dung trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội Phiên họp thứ 49).
– Chủ động nắm bắt đầy đủ những vấn đề trọng tâm, nổi cộm dư luận nhân dân và cử tri quan tâm thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ, cơ quan mình; kịp thời trao đổi, giải trình, cung cấp hồ sơ, tài liệu cho các đại biểu Quốc hội và cơ quan báo chí. Trả lời đầy đủ chất vấn của đại biểu Quốc hội, kiến nghị của cử tri theo đúng yêu cầu. Bố trí kế hoạch công tác, đảm bảo tham dự đầy đủ các phiên giải trình, thảo luận tại Hội trường theo chương trình.
b) Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương rà soát, thực hiện nghiêm túc quy định về tiếp dân, giải quyết khiếu nại tố cáo, không để xảy ra tình trạng công dân khiếu kiện vượt cấp, tập trung khiếu kiện đông người gây mất an ninh, trật tự, nhất là trong thời gian diễn ra kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIV. Đối với các địa phương có công dân khiếu nại, tố cáo đông người, kéo dài tại Hà Nội cần chủ động phối hợp với Thanh tra Chính phủ và các cơ quan chức năng của Trung ương tổ chức tiếp công dân, tuyên truyền, vận động, có biện pháp để công dân trở về địa phương giải quyết.
c) Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp chặt chẽ với Ban Tuyên giáo Trung ương định hướng thông tin nội dung kỳ họp thứ 10 để đại biểu Quốc hội, cử tri hiểu rõ và đồng thuận về những vấn đề được Quốc hội xem xét, quyết định. Các cơ quan báo chí của Chính phủ chủ động thông tin kịp thời, chính xác về các nội dung của kỳ họp Quốc hội và những vấn đề cử tri và nhân dân quan tâm, góp phần tạo đồng thuận xã hội.
3. Về đề nghị xây dựng Dự án Luật thực hiện dân chủ cơ sở
Chính phủ cơ bản thống nhất phạm vi điều chỉnh và các chính sách của dự án Luật thực hiện dân chủ cơ sở do Bộ Nội vụ trình. Riêng về tên gọi của dự án Luật, cần chỉnh lý lại cho phù hợp với phạm vi điều chỉnh của Luật quy định về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Giao Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp và Văn phòng Chính phủ, tiếp thu ý kiến Thành viên Chính phủ, chỉnh lý, hoàn thiện Đề nghị xây dựng Luật thực hiện dân chủ cơ sở và thực hiện các thủ tục tiếp theo theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
4. Về Dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về chính sách phát triển nghề công chứng
Chính phủ thống nhất thông qua sự cần thiết, mục tiêu, định hướng và nội dung dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về chính sách phát triển nghề công chứng.
Giao Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ tiếp thu ý kiến thành viên Chính phủ, hoàn thiện dự thảo Nghị quyết này, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, ký ban hành.
5. Về Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định số 126/2017/NĐ-CP, Nghị định số 91/2015/NĐ-CP và Nghị định số 32/2018/NĐ-CP
Chính phủ cơ bản thống nhất với dự thảo Nghị định sau khi đã được giải trình, tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ.
Giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ tiếp thu giải trình đầy đủ ý kiến thành viên Chính phủ tại phiên họp, hoàn thiện dự thảo Nghị định, trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành trước ngày 15 tháng 10 năm 2020.
6. Về việc coi các khoản đóng góp, ủng hộ trong các hoạt động chống dịch Covid-19 là chi phí được trừ khi xác định thu nhập tính thuế thu nhập doanh nghiệp
Chính phủ thống nhất đề nghị của Bộ Tài chính tại Tờ trình số 175/TTr-BTC ngày 01 tháng 10 năm 2020 về việc báo cáo Quốc hội cho phép coi các khoản đóng góp, ủng hộ trong các hoạt động chống dịch Covid-19 là khoản chi phí hợp lý được trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Giao Bộ trưởng Bộ Tài chính thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ báo cáo Quốc hội nội dung này.
7. Về việc chuyển đổi sang doanh nghiệp chế xuất của Công ty TNHH Điện tử SamSung HCMC CE Complex, tại Khu Công nghệ cao TP Hồ Chí Minh
Chính phủ thống nhất cho phép Công ty SEHC được chuyển đổi sang doanh nghiệp chế xuất trong Khu Công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh theo đề nghị của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh để tạo điều kiện cho công ty mở rộng quy mô tại Việt Nam, tăng cường năng lực cạnh tranh toàn cầu.
8. Về bổ sung vốn điều lệ còn thiếu từ Quỹ hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp cho Tổng công ty 15 và Công ty TNHH MTV 16 (Bộ Quốc phòng)
Chính phủ thống nhất chủ trương sử dụng Quỹ Hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp để cấp bổ sung một phần vốn điều lệ còn thiếu cho Tổng công ty 15 (200 tỷ đồng) và Công ty TNHH MTV 16 (60 tỷ đồng), tạo điều kiện cho hai doanh nghiệp thực hiện các nhiệm vụ kinh tế và quốc phòng an ninh tại tuyến biên giới theo đề xuất của Bộ Tài chính và Bộ Quốc phòng. Giao Thủ tướng Chính phủ quyết đính xuất Quỹ để cấp bổ sung vốn điều lệ cho hai doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
Bộ Quốc phòng có trách nhiệm quản lý nguồn vốn cấp bổ sung cho hai doanh nghiệp theo quy định của pháp luật để bảo toàn, phát triển vốn được cấp và phát huy hiệu quả, nâng cao nguồn lực cho hai doanh nghiệp.
9. Về vướng mắc trong thực hiện hỗ trợ kinh phí cho các địa phương phòng, chống hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn
Chính phủ thống nhất hỗ trợ một phần từ ngân sách trung ương cho ngân sách một số địa phương khó khăn để thực hiện các nhiệm vụ cấp bách phòng, chống, khắc phục hậu quả hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn, gồm: tiền điện, dầu bơm nước vượt định mức; nạo vét cửa lấy nước, hệ thống kênh mương; đắp đập tạm ngăn mặn, trữ nước ngọt; lắp đặt trạm bơm dã chiến; kéo dài đường ống cấp nước sạch; hỗ trợ các thiết bị trữ nước, lọc nước mặn thành nước ngọt, chở nước sinh hoạt cho người dân, bệnh viện, trường học tại vùng khó khăn về nguồn nước ngọt.
– Giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan khẩn trương xây dựng Quyết định quy định về phạm vi, đối tượng, nội dung chi và cơ chế hỗ trợ cụ thể từ ngân sách trung ương cho địa phương để phòng, chống hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn bảo đảm phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách và nhiệm vụ cấp bách phòng, chống hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn thực tế tại từng khu vực; trình Thủ tướng Chính phủ trong tháng 10 năm 2020.
– Giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Nghị định số 96/2018/NĐ-CP quy định chi tiết về giá sản phẩm, dịch vụ thủy lợi và hỗ trợ tiền sử dụng sản phẩm, dịch vụ công ích thủy lợi để đề xuất bổ sung nội dung trên vào Nghị định, trình Chính phủ trong năm 2020.
10. Về việc lắp đặt các trạm thu phát sóng di động (BTS) của doanh nghiệp viễn thông di động trên tài sản công
Chính phủ thống nhất cho phép tiếp tục duy trì các trạm BTS đã lắp đặt trên tài sản công (không xem xét việc lắp đặt, xây dựng mới trạm BTS) cho đến khi có quy định mới của Chính phủ.
– Giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp Bộ Thông tin và Truyền thông hướng dẫn các bộ, cơ quan, địa phương trong việc khai thác tài sản công để lắp đặt trạm BTS và quản lý, sử dụng số tiền thu được; đồng thời phối hợp với các bộ, cơ quan rà soát việc sử dụng các tài sản công, đề xuất, báo cáo Chính phủ cơ chế, chính sách phù hợp để phát huy hiệu quả nguồn lực này.
– Giao Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu đưa quy định về việc xây dựng, lắp đặt trạm BTS trên tài sản công vào dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 25/2011/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Viễn thông theo quy định pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
11. Về việc kéo dài thời gian thí điểm Đội Quản lý trật tự xây dựng đô thị trực thuộc Ủy ban nhân dân quận, huyện, thị xã tại Thành phố Hà Nội
Chính phủ thống nhất kiến nghị của Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội về chủ trương kéo dài thí điểm Đội quản lý trật tự xây dựng đô thị trực thuộc Ủy ban nhân dân quận, huyện, thị xã tại Thành phố Hà Nội.
Giao Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ dự thảo Quyết định sửa đổi, bổ sung Quyết định số 26/2018/QĐ-TTg ngày 22 tháng 6 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ thí điểm thành lập Đội Quản lý trật tự xây dựng đô thị trực thuộc Ủy ban nhân dân quận, huyện, thị xã tại thành phố Hà Nội, trong đó xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, bảo đảm tinh gọn bộ máy và phù hợp với các quy định pháp luật có liên quan.
12. Về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 42/NQ-CP và dự thảo Quyết định sửa đổi, bổ sung Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg
– Giao Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các bộ, cơ quan liên quan, các địa phương khẩn trương tiếp thu ý kiến thành viên Chính phủ, hoàn thiện, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, ký ban hành Nghị quyết và Quyết định theo hướng bổ sung đối tượng, cắt giảm các điều kiện, tạo thuận lợi cho người lao động và doanh nghiệp gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 dễ dàng tiếp cận với gói hỗ trợ 16 nghìn tỷ đông.
– Giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khẩn trương sửa đổi, bổ sung Thông tư số 05/2020/TT-NHNN phù hợp với Quyết định sửa đổi, bổ sung Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ nhằm triển khai ngay việc tái cấp vốn đối với Ngân hàng Chính sách Xã hội để cho người sử dụng lao động gặp khó khăn về tài chính vay trả lương ngừng việc cho người lao động do bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19.
13. Về kết quả thực hiện nhiệm vụ; chương trình công tác; tình hình thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Chính phủ ban hành văn bản quy định chi tiết luật, pháp lệnh
Chính phủ yêu cầu:
a) Về việc thực hiện nhiệm vụ; chương trình công tác:
Bộ trưởng, Thử trưởng cơ quan thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các nhiệm vụ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao và các đề án trong Chương trình công tác quý IV năm 2020, bảo đảm chất lượng và đúng tiến độ; đồng thời khẩn trương tập trung chỉ đạo hoàn thành các nhiệm vụ và trình các đề án còn tồn đọng.
b) Về việc thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh và ban hành văn bản quy định chi tiết luật, pháp lệnh
– Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chỉ đạo quyết liệt việc xây dựng, hoàn thiện dự án luật, dự thảo nghị quyết trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo phân công; đồng thời xử lý dứt điểm tình trạng nợ đọng văn bản quy định chi tiết trước ngày diễn ra kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIV. Tập trung nguồn lực để soạn thảo, trình ban hành văn bản quy định chi tiết luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2021.
– Để tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp trong quá trình thực thi pháp luật, yêu cầu các bộ, cơ quan ngang bộ cắt giảm tối đa số lượng văn bản quy định chi tiết luật theo hướng một luật chỉ ban hành tối đa 02 nghị định quy định chi tiết, trường hợp đặc thù báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
– Bộ Tư pháp phối hợp với Văn phòng Chính phủ kiểm soát chặt chẽ việc ban hành các quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh, bảo đảm giảm số lượng văn bản quy định, giảm quy định và giảm chi phí cho doanh nghiệp, người dân theo đúng tinh thần của Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 12 tháng 5 năm 2020.
14. Về thực hiện nhiệm vụ xây dựng Chính phủ điện tử và cải cách hành chính
a) Về xây dựng Chính phủ điện tử
– Các bộ, ngành, địa phương tiếp tục thực hiện nghiêm túc, hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ đặt ra của năm 2020 nêu tại Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 07 tháng 3 năm 2019 của Chính phủ; khẩn trương cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 4, ít nhất đạt mục tiêu 30% trong năm 2020; hoàn thành xây dựng Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu cấp bộ/tỉnh trong tháng 10 năm 2020 và kết nối với Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia; triển khai biện pháp giám sát, điều hành an toàn, an ninh mạng tập trung và kết nối với Trung tâm giảm sát an toàn không gian mạng quốc gia trong năm 2020; khẩn trương triển khai các nhiệm vụ được giao tại Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 và Thông báo số 339/TB-VPCP ngày 22 tháng 9 năm 2020 của Văn phòng Chính phù về các vấn đề liên quan đến Chính phủ điện tử, kết nối, cung cấp thông tin, dữ liệu.
– Các bộ, ngành, địa phương chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, cơ quan liên quan đẩy nhanh thực hiện khai báo, kiểm thử việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến trên cổng Dịch vụ công quốc gia, phấn đấu hoàn thành mục tiêu tích hợp, cung cấp tối thiểu 30% dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 thuộc thẩm quyền giải quyết lên Cổng dịch vụ công quốc gia trước ngày 30 tháng 11 năm 2020..
b) Về công tác cải cách hành chính:
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan chỉ đạo bộ, cơ quan mình tập trung rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa ngay những quy định bất cập, gây khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Trong quá trình thực hiện, tổ chức tham vấn sâu rộng các chuyển giá, đối tượng chịu tác động, huy động sự tham gia phản biện của các tổ chức, hiệp hội, doanh nghiệp; hoàn thành thống kê, cập nhật dữ liệu và tính chi phí tuân thủ các quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh thuộc phạm vi quản lý trên hệ thống phần mềm được Văn phòng Chính phủ triển khai theo Nghị quyết số 68/NQ-CP trước ngày 31 tháng 10 năm 2020. Văn phòng Chính phủ theo dõi, đôn đốc việc thực hiện, định kỳ tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ để kịp thời chỉ đạo.
15. Về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và đấu tranh phòng, chống tham nhũng
Thanh tra Chính phủ tiếp tục thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ đề ra theo kế hoạch, trong đó khẩn trương ban hành kết luận thanh tra đối với các cuộc thanh tra đã kết thúc; tập trung đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện thể chế pháp luật có liên quan để kiểm soát tham nhũng.
16. Về Báo cáo việc tạm ứng từ Quỹ Hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp
Thực hiện quy định tại Khoản 4 Điều 3 Quy chế làm việc của Chính phủ ban hành kèm theo Nghị định số 138/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 10 năm 2016, Chính phủ thống nhất với Báo cáo của Bộ Tài chính về việc tạm ứng từ Quỹ Hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp để thực hiện kết luận của Ban cán sự đảng Chính phủ, ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ. Việc thanh toán, quyết toán đối với số tiền đã tạm ứng sẽ được Chính phủ tổng hợp trong Báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước trình Quốc hội.
17. Về báo cáo đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020 và dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021-2025
Chính phủ cơ bản thống nhất với dự thảo Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020 và dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021-2025 và đề xuất của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc gửi Báo cáo này trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội (theo phương án 1 nêu tại văn bản số 624/BC-BKHĐT ngày 01 tháng 10 năm 2020). Giao Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì cùng các bộ, ngành nghiêm túc tiếp thu ý kiến của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương để hoàn thiện Báo cáo trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; trên cơ sở đó thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội theo quy định./.
Nơi nhận: – Ban Bí thư Trung ương Đảng; – Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ; – Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; – HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW; – Văn phòng Trung ương và các Ban của Đảng; – Văn phòng Tổng Bí thư; – Văn phòng Chủ tịch nước; – Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; – Văn phòng Quốc hội; – Tòa án nhân dân tối cao; – Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; – Kiểm toán Nhà nước; – Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia; – Ngân hàng Chính sách xã hội; – Ngân hàng Phát triển Việt Nam; –UBTW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; – Cơ quan Trung ương của các đoàn thể; –VPCP: BTCN, các PCN; Trợ lý, Thư ký TTg, PTTg; các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc, Công báo, TGĐ Cổng TTĐT CP; – Lưu: Văn thư, TH (2b). |
TM. CHÍNH PHỦ THỦ TƯỚNG
Nguyễn Xuân Phúc |
Reviews
There are no reviews yet.