Bạn đang tìm kiếm :
VĂN BẢN PHÁP LUẬT

" Tất cả từ khóa "

Hệ thống tìm kiếm được các Văn Bản liên quan sau :

107.900 CÔNG VĂN (Xem & Tra cứu Công văn)
15.640 TIÊU CHUẨN VIỆT NAM (Xem & Tra cứu)

Nghị quyết 06/2005/NQ-CP của Chính phủ về Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 4 năm 2005

NGHỊ QUYẾT

CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 06/2005/NQ-CP NGÀY 06 THÁNG 5 NĂM 2005
VỀ PHIÊN HỌP CHÍNH PHỦ THƯỜNG KỲ THÁNG 4 NĂM 2005

Trong hai ngày 27 và 28 tháng 4 năm 2005, Chính phủ họp phiên thường kỳ tháng 4, bàn và quyết nghị những vấn đề sau:

1. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2006 – 2010.

Mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức, song chúng ta vẫn có nhiều khả năng hoàn thành nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội năm 2005 và kế hoạch 5 năm 2001 – 2005. Theo dự tính, có nhiều chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch đề ra, tốc độ tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức cao, bình quân khoảng 7,5% với nhịp độ phát triển năm sau cao hơn năm trước. Cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng tích cực; các cân đối kinh tế chủ yếu được giữ vững; hội nhập kinh tế quốc tế và kinh tế đối ngoại có bước tiến mới. Các lĩnh vực xã hội được chú ý phát triển đồng bộ với phát triển kinh tế; đời sống các tầng lớp dân cư được cải thiện, công tác xóa đói, giảm nghèo đạt nhiều kết quả tốt, được thế giới đánh giá cao, tỷ lệ hộ nghèo năm 2005 giảm khoảng 50% so với năm 2000. Tình hình chính trị, an ninh xã hội tiếp tục ổn định; quốc phòng được củng cố.

Mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2006 – 2010 là phải đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm cao hơn giai đoạn 2001 – 2005, tạo được động lực mạnh về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao chất lượng tăng trưởng; bảo đảm phát triển văn hoá, xã hội đồng bộ với tăng trưởng kinh tế; có bước cải thiện rõ rệt về chất lượng giáo dục, đào tạo; chú trọng phát triển hạ tầng và đầu tư nhiều hơn nữa cho lĩnh vực xã hội; triển khai mạnh, có hiệu quả công tác xóa đói, giảm nghèo; tiếp tục giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.

Công tác xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006- 2010 phải được đổi mới cả về tư duy và phương pháp xây dựng, trên cơ sở đánh giá đầy đủ và xác đáng những khó khăn, thuận lợi trong quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm 2001 – 2005; phải chỉ rõ, cụ thể những khuyết điểm, yếu kém làm cản trở sự phát triển của nền kinh tế, tìm ra nguyên nhân làm chậm quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đề ra được giải pháp đột phá nhằm thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2001 – 2010.

Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành và địa phương tổ chức thảo luận, góp ý cụ thể với Chính phủ về nội dung và các giải pháp đề ra trong dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2006 – 2010. Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp thu các ý kiến tại phiên họp và ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương, hoàn chỉnh dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2006 – 2010, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét trình Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Hội nghị Trung ương lần thứ 12 và chuẩn bị trình Quốc hội cho ý kiến vào kỳ họp cuối năm 2005.

2. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội trìnhBáo cáo chuẩn nghèo giai đoạn 2006 – 2010.

Từ năm 1993 đến nay, nước ta đã nhiều lần điều chỉnh chuẩn nghèo cho phù hợp với tăng trưởng kinh tế và mức sống dân cư, làm cơ sở để Nhà nước xác định đối tượng cần trợ giúp và xây dựng, đánh giá kết quả thực hiện Chương trình xóa đói, giảm nghèo. Tuy nhiên, trong xu hướng mức sống của dân cư ngày càng được cải thiện và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng khẩn trương, chuẩn nghèo cần được điều chỉnh lại phù hợp với sự tăng trưởng kinh tế và mức sống dân cư giai đoạn 2006 – 2010. Việc xác định chuẩn nghèo phải được tính toán trong mối quan hệ chặt chẽ với các yếu tố về thu nhập dân cư, chi tiêu thực tế, tốc độ tăng trưởng, lạm phát và tiếp cận dần với chuẩn nghèo của các nước đang phát triển trong khu vực và thế giới; bảo đảm tính so sánh qua thời gian và không gian. Chính phủ nhất trí với phương pháp và nội dung xác định chuẩn nghèo mới theo Phương án I do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội trình.

Giao Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Tổng cục Thống kê và các cơ quan liên quan tiếp thu các ý kiến tại phiên họp, dự thảo Quyết định quy định cụ thể về chuẩn nghèo mới cho giai đoạn 2006 – 2010, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành; đồng thời, xây dựng Chương trình quốc gia xóa đói, giảm nghèo giai đoạn 2006 – 2010 trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Chương trình xóa đói, giảm nghèo phải bảo đảm đồng bộ, quy định rõ bước đi theo từng giai đoạn và có cơ chế phù hợp để giúp người nghèo chủ động phát triển sản xuất xóa đói, giảm nghèo, chú trọng các vùng đồng bào dân tộc, vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.

3. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải trình dự án Luật Hàng không dân dụng Việt Nam (sửa đổi); nghe Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ báo cáo tổng hợp ý kiến các thành viên Chính phủ về dự thảo Luật này.

Giao Bộ Giao thông vận tải chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp và các cơ quan liên quan tiếp thu các ý kiến tại phiên họp, hoàn chỉnh dự án Luật Hàng không dân dụng Việt Nam (sửa đổi), trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định việc trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

4. Chính phủ thảo luận Báo cáo về thực hiện sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước 4 tháng đầu năm 2005 và nhiệm vụ, giải pháp đẩy mạnh công tác này trong các năm 2005 – 2006 do Ban Chỉ đạo Đổi mới và phát triển doanh nghiệp trình.

Tuy gặp không ít khó khăn, nhưng nhìn chung đến nay việc sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước đã được triển khai thực hiện theo đúng Nghị quyết của Đảng và quy định của nhà nước với những bước đi thích hợp, vững chắc, có nhiều đổi mới cơ bản về phương thức và đối tượng cổ phần hoá. Một bộ phận đáng kể doanh nghiệp nhà nước đã được cơ cấu lại hợp lý. Vốn nhà nước tại các doanh nghiệp sau khi sắp xếp, cổ phần hoá được bảo toàn và tăng hơn. Cơ chế quản lý doanh nghiệp có chuyển biến tích cực, hầu hết doanh nghiệp sau khi được cổ phần hoá đều hoạt động có hiệu quả, nâng cao được năng lực cạnh tranh, đời sống người lao động được cải thiện.

Tuy nhiên, đến nay, tiến độ thực hiện sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước còn chậm. Công tác tuyên truyền về cổ phần hoá còn hạn chế, một số văn bản hướng dẫn thực hiện cổ phần hoá ban hành chưa kịp thời làm phát sinh những nhận thức không đúng về việc cổ phần hoá. Một số Bộ, ngành, địa phương chưa quan tâm chỉ đạo sát sao; một số doanh nghiệp vẫn chưa thực sự đổi mới, bảo đảm tính công khai minh bạch trong cổ phần hoá doanh nghiệp.

Để cơ bản hoàn thành việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước theo tinh thần các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, trong năm 2005-2006 phải đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước theo hướng: hình thành loại hình doanh nghiệp nhà nước có nhiều chủ sở hữu, chủ yếu là các công ty cổ phần; thu hẹp và tiến tới bỏ chức năng đại diện chủ sở hữu của các Bộ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; mở rộng hơn diện cổ phần hoá, Nhà nước chỉ giữ 100% vốn đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bảo đảm an ninh, quốc phòng và sản xuất, cung ứng dịch vụ công ích thiết yếu; chỉ giữ cổ phần chi phối đối với các Tổng công ty, công ty cổ phần hoạt động trong những ngành, lĩnh vực bảo đảm điều tiết vĩ mô và những cân đối lớn của nền kinh tế.

Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương phải triển khai thực hiện quyết liệt hơn phương án sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; đẩy mạnh công tác tuyên truyền để các cấp, các ngành và nhân dân có nhận thức đúng về chủ trương và thực tế diễn biến của quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; tiếp tục thực hiện nghiêm các quy định của Đảng và Chính phủ về sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước.

Giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khẩn trương trình Thủ tướng Chính phủ phương án sắp xếp các nông, lâm trường quốc doanh.

Giao Ban Chỉ đạo Đổi mới và phát triển doanh nghiệp tiếp thu các ý kiến tại phiên họp, bổ sung thêm nội dung để xây dựng Báo cáo tổng kết 4 năm thực hiện việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, báo cáo Bộ Chính trị.

5. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo Tình hình kinh tế – xã hội và kết quả giao ban sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu và đầu tư tháng 4 và 4 tháng năm 2005; Bộ Thương mại báo cáo Tình hình thị trường trong nước và xuất khẩu tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2005; Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải báo cáo Tình hình trật tự, an toàn giao thông 4 tháng đầu năm 2005; Thanh tra Chính phủ báo cáo Kết quả thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo quý I năm 2005.

Trong 4 tháng đầu năm 2005, mặc dù hạn hán và dịch cúm gia cầm xảy ra ở nhiều địa phương, giá một số mặt hàng, vật tư nhập khẩu, giá lương thực, thực phẩm trong nước tiếp tục tăng, nhưng nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá. Giá trị sản xuất công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu, tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tăng cao; sản xuất nông nghiệp, vận tải hàng hoá và hành khách, dịch vụ bưu chính, viễn thông tiếp tục phát triển ổn định; hoạt động du lịch sôi động. Thu ngân sách tăng, cơ bản bảo đảm chi cho đầu tư phát triển và cho phát triển sự nghiệp kinh tế – xã hội, an ninh, quốc phòng. Vốn đầu tư nước ngoài tăng. Các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo có nhiều tiến bộ; công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân, kiểm soát dịch bệnh được chú trọng, không để xảy ra dịch lớn. Tai nạn giao thông giảm đáng kể về số vụ, số người chết và người bị thương.

Tuy nhiên, giá cả tiêu dùng 4 tháng đầu năm vẫn tăng cao, tai nạn giao thông còn diễn biến phức tạp; cháy rừng xảy ra ở nhiều nơi, nạn lâm tặc phá rừng và chống đối cán bộ kiểm lâm thi hành công vụ chưa được ngăn chặn có hiệu quả, tình trạng khiếu kiện còn nhiều.

Để hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2005, Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành và địa phương tiếp tục tập trung cao độ tìm các giải pháp tháo gỡ, thúc đẩy sản xuất phát triển; chú trọng các giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao tỷ trọng giá trị dịch vụ, đẩy mạnh xuất khẩu; chủ động tu sửa đê điều, phòng chống bão lũ; tăng cường quản lý thị trường, không để xảy ra tăng giá đột biến, giữ ổn định chỉ số giá hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng; giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu kiện tồn đọng; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, chú trọng vào lĩnh vực đầu tư xây dựng, sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và những lĩnh vực nổi cộm; duy trì trật tự, an toàn giao thông và giảm thiểu tai nạn giao thông.

Các Bộ, ngành và địa phương khẩn trươngh rà soát và báo cáo tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết số 01/2005/NQ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2005 của Chính phủ về một số giải pháp chủ yếu chỉ đạo thực hiện kế hoạch kinh tế – xã hội và ngân sách Nhà nước năm 2005 và ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại các các văn bản có liên quan, gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Văn phòng Chính phủ để tổng hợp báo cáo Chính phủ tại phiên họp thường kỳ tháng 5 năm 2005.

Thuộc tính văn bản
Nghị quyết 06/2005/NQ-CP của Chính phủ về Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 4 năm 2005
Cơ quan ban hành: Chính phủ Số công báo: Đã biết
Số hiệu: 06/2005/NQ-CP Ngày đăng công báo: Đã biết
Loại văn bản: Nghị quyết Người ký: Phan Văn Khải
Ngày ban hành: 06/05/2005 Ngày hết hiệu lực: Đang cập nhật
Áp dụng: Đã biết Tình trạng hiệu lực: Đã biết
Lĩnh vực: Chính sách
Tóm tắt văn bản

NGHỊ QUYẾT

CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 06/2005/NQ-CP NGÀY 06 THÁNG 5 NĂM 2005
VỀ PHIÊN HỌP CHÍNH PHỦ THƯỜNG KỲ THÁNG 4 NĂM 2005

Trong hai ngày 27 và 28 tháng 4 năm 2005, Chính phủ họp phiên thường kỳ tháng 4, bàn và quyết nghị những vấn đề sau:

1. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2006 – 2010.

Mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức, song chúng ta vẫn có nhiều khả năng hoàn thành nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội năm 2005 và kế hoạch 5 năm 2001 – 2005. Theo dự tính, có nhiều chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch đề ra, tốc độ tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức cao, bình quân khoảng 7,5% với nhịp độ phát triển năm sau cao hơn năm trước. Cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng tích cực; các cân đối kinh tế chủ yếu được giữ vững; hội nhập kinh tế quốc tế và kinh tế đối ngoại có bước tiến mới. Các lĩnh vực xã hội được chú ý phát triển đồng bộ với phát triển kinh tế; đời sống các tầng lớp dân cư được cải thiện, công tác xóa đói, giảm nghèo đạt nhiều kết quả tốt, được thế giới đánh giá cao, tỷ lệ hộ nghèo năm 2005 giảm khoảng 50% so với năm 2000. Tình hình chính trị, an ninh xã hội tiếp tục ổn định; quốc phòng được củng cố.

Mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2006 – 2010 là phải đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm cao hơn giai đoạn 2001 – 2005, tạo được động lực mạnh về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao chất lượng tăng trưởng; bảo đảm phát triển văn hoá, xã hội đồng bộ với tăng trưởng kinh tế; có bước cải thiện rõ rệt về chất lượng giáo dục, đào tạo; chú trọng phát triển hạ tầng và đầu tư nhiều hơn nữa cho lĩnh vực xã hội; triển khai mạnh, có hiệu quả công tác xóa đói, giảm nghèo; tiếp tục giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.

Công tác xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006- 2010 phải được đổi mới cả về tư duy và phương pháp xây dựng, trên cơ sở đánh giá đầy đủ và xác đáng những khó khăn, thuận lợi trong quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm 2001 – 2005; phải chỉ rõ, cụ thể những khuyết điểm, yếu kém làm cản trở sự phát triển của nền kinh tế, tìm ra nguyên nhân làm chậm quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đề ra được giải pháp đột phá nhằm thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2001 – 2010.

Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành và địa phương tổ chức thảo luận, góp ý cụ thể với Chính phủ về nội dung và các giải pháp đề ra trong dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2006 – 2010. Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp thu các ý kiến tại phiên họp và ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương, hoàn chỉnh dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2006 – 2010, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét trình Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Hội nghị Trung ương lần thứ 12 và chuẩn bị trình Quốc hội cho ý kiến vào kỳ họp cuối năm 2005.

2. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội trìnhBáo cáo chuẩn nghèo giai đoạn 2006 – 2010.

Từ năm 1993 đến nay, nước ta đã nhiều lần điều chỉnh chuẩn nghèo cho phù hợp với tăng trưởng kinh tế và mức sống dân cư, làm cơ sở để Nhà nước xác định đối tượng cần trợ giúp và xây dựng, đánh giá kết quả thực hiện Chương trình xóa đói, giảm nghèo. Tuy nhiên, trong xu hướng mức sống của dân cư ngày càng được cải thiện và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng khẩn trương, chuẩn nghèo cần được điều chỉnh lại phù hợp với sự tăng trưởng kinh tế và mức sống dân cư giai đoạn 2006 – 2010. Việc xác định chuẩn nghèo phải được tính toán trong mối quan hệ chặt chẽ với các yếu tố về thu nhập dân cư, chi tiêu thực tế, tốc độ tăng trưởng, lạm phát và tiếp cận dần với chuẩn nghèo của các nước đang phát triển trong khu vực và thế giới; bảo đảm tính so sánh qua thời gian và không gian. Chính phủ nhất trí với phương pháp và nội dung xác định chuẩn nghèo mới theo Phương án I do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội trình.

Giao Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Tổng cục Thống kê và các cơ quan liên quan tiếp thu các ý kiến tại phiên họp, dự thảo Quyết định quy định cụ thể về chuẩn nghèo mới cho giai đoạn 2006 – 2010, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành; đồng thời, xây dựng Chương trình quốc gia xóa đói, giảm nghèo giai đoạn 2006 – 2010 trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Chương trình xóa đói, giảm nghèo phải bảo đảm đồng bộ, quy định rõ bước đi theo từng giai đoạn và có cơ chế phù hợp để giúp người nghèo chủ động phát triển sản xuất xóa đói, giảm nghèo, chú trọng các vùng đồng bào dân tộc, vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.

3. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải trình dự án Luật Hàng không dân dụng Việt Nam (sửa đổi); nghe Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ báo cáo tổng hợp ý kiến các thành viên Chính phủ về dự thảo Luật này.

Giao Bộ Giao thông vận tải chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp và các cơ quan liên quan tiếp thu các ý kiến tại phiên họp, hoàn chỉnh dự án Luật Hàng không dân dụng Việt Nam (sửa đổi), trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định việc trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

4. Chính phủ thảo luận Báo cáo về thực hiện sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước 4 tháng đầu năm 2005 và nhiệm vụ, giải pháp đẩy mạnh công tác này trong các năm 2005 – 2006 do Ban Chỉ đạo Đổi mới và phát triển doanh nghiệp trình.

Tuy gặp không ít khó khăn, nhưng nhìn chung đến nay việc sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước đã được triển khai thực hiện theo đúng Nghị quyết của Đảng và quy định của nhà nước với những bước đi thích hợp, vững chắc, có nhiều đổi mới cơ bản về phương thức và đối tượng cổ phần hoá. Một bộ phận đáng kể doanh nghiệp nhà nước đã được cơ cấu lại hợp lý. Vốn nhà nước tại các doanh nghiệp sau khi sắp xếp, cổ phần hoá được bảo toàn và tăng hơn. Cơ chế quản lý doanh nghiệp có chuyển biến tích cực, hầu hết doanh nghiệp sau khi được cổ phần hoá đều hoạt động có hiệu quả, nâng cao được năng lực cạnh tranh, đời sống người lao động được cải thiện.

Tuy nhiên, đến nay, tiến độ thực hiện sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước còn chậm. Công tác tuyên truyền về cổ phần hoá còn hạn chế, một số văn bản hướng dẫn thực hiện cổ phần hoá ban hành chưa kịp thời làm phát sinh những nhận thức không đúng về việc cổ phần hoá. Một số Bộ, ngành, địa phương chưa quan tâm chỉ đạo sát sao; một số doanh nghiệp vẫn chưa thực sự đổi mới, bảo đảm tính công khai minh bạch trong cổ phần hoá doanh nghiệp.

Để cơ bản hoàn thành việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước theo tinh thần các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, trong năm 2005-2006 phải đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước theo hướng: hình thành loại hình doanh nghiệp nhà nước có nhiều chủ sở hữu, chủ yếu là các công ty cổ phần; thu hẹp và tiến tới bỏ chức năng đại diện chủ sở hữu của các Bộ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; mở rộng hơn diện cổ phần hoá, Nhà nước chỉ giữ 100% vốn đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bảo đảm an ninh, quốc phòng và sản xuất, cung ứng dịch vụ công ích thiết yếu; chỉ giữ cổ phần chi phối đối với các Tổng công ty, công ty cổ phần hoạt động trong những ngành, lĩnh vực bảo đảm điều tiết vĩ mô và những cân đối lớn của nền kinh tế.

Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương phải triển khai thực hiện quyết liệt hơn phương án sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; đẩy mạnh công tác tuyên truyền để các cấp, các ngành và nhân dân có nhận thức đúng về chủ trương và thực tế diễn biến của quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; tiếp tục thực hiện nghiêm các quy định của Đảng và Chính phủ về sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước.

Giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khẩn trương trình Thủ tướng Chính phủ phương án sắp xếp các nông, lâm trường quốc doanh.

Giao Ban Chỉ đạo Đổi mới và phát triển doanh nghiệp tiếp thu các ý kiến tại phiên họp, bổ sung thêm nội dung để xây dựng Báo cáo tổng kết 4 năm thực hiện việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, báo cáo Bộ Chính trị.

5. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo Tình hình kinh tế – xã hội và kết quả giao ban sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu và đầu tư tháng 4 và 4 tháng năm 2005; Bộ Thương mại báo cáo Tình hình thị trường trong nước và xuất khẩu tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2005; Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải báo cáo Tình hình trật tự, an toàn giao thông 4 tháng đầu năm 2005; Thanh tra Chính phủ báo cáo Kết quả thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo quý I năm 2005.

Trong 4 tháng đầu năm 2005, mặc dù hạn hán và dịch cúm gia cầm xảy ra ở nhiều địa phương, giá một số mặt hàng, vật tư nhập khẩu, giá lương thực, thực phẩm trong nước tiếp tục tăng, nhưng nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá. Giá trị sản xuất công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu, tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tăng cao; sản xuất nông nghiệp, vận tải hàng hoá và hành khách, dịch vụ bưu chính, viễn thông tiếp tục phát triển ổn định; hoạt động du lịch sôi động. Thu ngân sách tăng, cơ bản bảo đảm chi cho đầu tư phát triển và cho phát triển sự nghiệp kinh tế – xã hội, an ninh, quốc phòng. Vốn đầu tư nước ngoài tăng. Các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo có nhiều tiến bộ; công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân, kiểm soát dịch bệnh được chú trọng, không để xảy ra dịch lớn. Tai nạn giao thông giảm đáng kể về số vụ, số người chết và người bị thương.

Tuy nhiên, giá cả tiêu dùng 4 tháng đầu năm vẫn tăng cao, tai nạn giao thông còn diễn biến phức tạp; cháy rừng xảy ra ở nhiều nơi, nạn lâm tặc phá rừng và chống đối cán bộ kiểm lâm thi hành công vụ chưa được ngăn chặn có hiệu quả, tình trạng khiếu kiện còn nhiều.

Để hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2005, Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành và địa phương tiếp tục tập trung cao độ tìm các giải pháp tháo gỡ, thúc đẩy sản xuất phát triển; chú trọng các giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao tỷ trọng giá trị dịch vụ, đẩy mạnh xuất khẩu; chủ động tu sửa đê điều, phòng chống bão lũ; tăng cường quản lý thị trường, không để xảy ra tăng giá đột biến, giữ ổn định chỉ số giá hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng; giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu kiện tồn đọng; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, chú trọng vào lĩnh vực đầu tư xây dựng, sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và những lĩnh vực nổi cộm; duy trì trật tự, an toàn giao thông và giảm thiểu tai nạn giao thông.

Các Bộ, ngành và địa phương khẩn trươngh rà soát và báo cáo tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết số 01/2005/NQ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2005 của Chính phủ về một số giải pháp chủ yếu chỉ đạo thực hiện kế hoạch kinh tế – xã hội và ngân sách Nhà nước năm 2005 và ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại các các văn bản có liên quan, gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Văn phòng Chính phủ để tổng hợp báo cáo Chính phủ tại phiên họp thường kỳ tháng 5 năm 2005.

Đang cập nhật

Đang cập nhật

Đang cập nhật

Đang cập nhật

Đồng ý nhận thông tin từ BePro.vn qua Email và Số điện thoại bạn đã cung cấp

Nếu bạn không tải về được vui lòng bấm vào đây để tải về.
BePro.vn sẽ thường xuyên cập nhật các văn bản pháp luật mới nhất, hãy luôn theo dõi thuvienluat.bepro.vn nhé!
Xin cảm ơn.

Reviews

There are no reviews yet.

Be the first to review “Nghị quyết 06/2005/NQ-CP của Chính phủ về Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 4 năm 2005”