Bạn đang tìm kiếm :
VĂN BẢN PHÁP LUẬT

" Tất cả từ khóa "

Hệ thống tìm kiếm được các Văn Bản liên quan sau :

107.900 CÔNG VĂN (Xem & Tra cứu Công văn)
15.640 TIÊU CHUẨN VIỆT NAM (Xem & Tra cứu)

Công văn 5319/TCHQ-GSQL của Tổng cục Hải quan về việc mã số HS trên C/O form D khác với mã số do hải quan phân loại đơn vị hàng hoá nhập khẩu thực tế

CÔNG VĂN

CỦA BỘ TÀI CHÍNH – TỔNG CỤC HẢI QUAN SỐ 5319/TCHQ-GSQL
NGÀY 23 THÁNG 10 NĂM 2003 VỀ VIỆC Mà SỐ HS TRÊN C/O FORM D KHÁC VỚI Mà SỐ DO HẢI QUAN PHÂN LOẠI ĐỐI VỚI
HÀNG HÓA NHẬP KHẨU THỰC TẾ

Kính gửi: Cục Hải quan các tỉnh, thành phố

Tổng cục Hải quan nhận được phản ánh của Vụ Hợp tác Quốc tế – Bộ Tài chính tại Công văn số 10219/TC-HTQT ngày 02/10/2003 về việc một số đơn vị hải quan không chấp nhận C/O mẫu D khi hải quan áp mã hàng nhập khẩu thực tế khác với mã HS ghi trên C/O do nước xuất khẩu phát hành. Để giải quyết vướng mắc này, Tổng cục Hải quan hướng dẫn thực hiện thống nhất như sau:

Theo quy định tại Thông tư số 85/2003/TT-BTC ngày 29/8/2003 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện việc phân loại hàng hoá theo danh mục hàng hóa XK, NK và biểu thuế NK ưu đãi, biểu thuế XK, thì việc phân loại hàng hóa phải căn cứ vào thực tế hàng hóa và danh mục hàng hóa XK, NK của Việt Nam; biểu thuế NK, biểu thuế XK và các tài liệu kèm theo. Do vậy mỗi mặt hàng sau khi được phân loại phải có mã số đầy đủ là 8 chữ số và chỉ được xếp vào một mã số duy nhất theo danh mục hàng hóa XK, NK của Việt Nam.

Các mã HS do cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu là thành viên ASEAN phát hành, thể hiện trên C/O mẫu D hiện nay còn có sự chưa thật thống nhất trong phân loại giữa các nước ASEAN đối với một số mặt hàng cụ thể nên mã HS ghi trên C/O chỉ được sử dụng để các Chi cục Hải quan tham khảo khi phân loại hàng hóa nhập khẩu. Vì vậy, khi có sự khác biệt giữa mã HS trên giấy chứng nhận xuất xứ mẫu D do cơ quan thẩm quyền của nước xuất khẩu phát hành và mã HS do hải quan phân loại trong quá trình làm thủ tục hàng hóa NK thì riêng về xác định xuất xứ hàng hóa, hải quan chưa coi đó là lý do để từ chối tính hợp lệ và hiệu lực của giấy chứng nhận xuất xứ mẫu D nếu như lô hàng đáp ứng đầy đủ điều kiện quy định tại điểm I Thông tư 64/2003/TT-BTC ngày 01/7/2003 của Bộ Tài chính hướng dẫn NĐ 78/2003/NĐ-CP ngày 01/7/2003 của Chính phủ và cơ quan hải quan không có cơ sở chứng minh lô hàng gian lận về xuất xứ.

Tổng cục Hải quan hướng dẫn để Cục Hải quan các tỉnh, thành phố thực hiện.

Thuộc tính văn bản
Công văn 5319/TCHQ-GSQL của Tổng cục Hải quan về việc mã số HS trên C/O form D khác với mã số do hải quan phân loại đơn vị hàng hoá nhập khẩu thực tế
Cơ quan ban hành: Tổng cục Hải quan Số công báo: Đã biết
Số hiệu: 5319/TCHQ-GSQL Ngày đăng công báo: Đang cập nhật
Loại văn bản: Công văn Người ký: Vũ Ngọc Anh
Ngày ban hành: 23/10/2003 Ngày hết hiệu lực: Đang cập nhật
Áp dụng: Đã biết Tình trạng hiệu lực: Đã biết
Lĩnh vực: Xuất nhập khẩu , Hải quan
Tóm tắt văn bản

CÔNG VĂN

CỦA BỘ TÀI CHÍNH – TỔNG CỤC HẢI QUAN SỐ 5319/TCHQ-GSQL
NGÀY 23 THÁNG 10 NĂM 2003 VỀ VIỆC Mà SỐ HS TRÊN C/O FORM D KHÁC VỚI Mà SỐ DO HẢI QUAN PHÂN LOẠI ĐỐI VỚI
HÀNG HÓA NHẬP KHẨU THỰC TẾ

Kính gửi: Cục Hải quan các tỉnh, thành phố

Tổng cục Hải quan nhận được phản ánh của Vụ Hợp tác Quốc tế – Bộ Tài chính tại Công văn số 10219/TC-HTQT ngày 02/10/2003 về việc một số đơn vị hải quan không chấp nhận C/O mẫu D khi hải quan áp mã hàng nhập khẩu thực tế khác với mã HS ghi trên C/O do nước xuất khẩu phát hành. Để giải quyết vướng mắc này, Tổng cục Hải quan hướng dẫn thực hiện thống nhất như sau:

Theo quy định tại Thông tư số 85/2003/TT-BTC ngày 29/8/2003 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện việc phân loại hàng hoá theo danh mục hàng hóa XK, NK và biểu thuế NK ưu đãi, biểu thuế XK, thì việc phân loại hàng hóa phải căn cứ vào thực tế hàng hóa và danh mục hàng hóa XK, NK của Việt Nam; biểu thuế NK, biểu thuế XK và các tài liệu kèm theo. Do vậy mỗi mặt hàng sau khi được phân loại phải có mã số đầy đủ là 8 chữ số và chỉ được xếp vào một mã số duy nhất theo danh mục hàng hóa XK, NK của Việt Nam.

Các mã HS do cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu là thành viên ASEAN phát hành, thể hiện trên C/O mẫu D hiện nay còn có sự chưa thật thống nhất trong phân loại giữa các nước ASEAN đối với một số mặt hàng cụ thể nên mã HS ghi trên C/O chỉ được sử dụng để các Chi cục Hải quan tham khảo khi phân loại hàng hóa nhập khẩu. Vì vậy, khi có sự khác biệt giữa mã HS trên giấy chứng nhận xuất xứ mẫu D do cơ quan thẩm quyền của nước xuất khẩu phát hành và mã HS do hải quan phân loại trong quá trình làm thủ tục hàng hóa NK thì riêng về xác định xuất xứ hàng hóa, hải quan chưa coi đó là lý do để từ chối tính hợp lệ và hiệu lực của giấy chứng nhận xuất xứ mẫu D nếu như lô hàng đáp ứng đầy đủ điều kiện quy định tại điểm I Thông tư 64/2003/TT-BTC ngày 01/7/2003 của Bộ Tài chính hướng dẫn NĐ 78/2003/NĐ-CP ngày 01/7/2003 của Chính phủ và cơ quan hải quan không có cơ sở chứng minh lô hàng gian lận về xuất xứ.

Tổng cục Hải quan hướng dẫn để Cục Hải quan các tỉnh, thành phố thực hiện.

Đang cập nhật

Đang cập nhật

Đang cập nhật

Đang cập nhật

Đồng ý nhận thông tin từ BePro.vn qua Email và Số điện thoại bạn đã cung cấp

Nếu bạn không tải về được vui lòng bấm vào đây để tải về.
BePro.vn sẽ thường xuyên cập nhật các văn bản pháp luật mới nhất, hãy luôn theo dõi thuvienluat.bepro.vn nhé!
Xin cảm ơn.

Reviews

There are no reviews yet.

Be the first to review “Công văn 5319/TCHQ-GSQL của Tổng cục Hải quan về việc mã số HS trên C/O form D khác với mã số do hải quan phân loại đơn vị hàng hoá nhập khẩu thực tế”