Bạn đang tìm kiếm :
VĂN BẢN PHÁP LUẬT

" Tất cả từ khóa "

Hệ thống tìm kiếm được các Văn Bản liên quan sau :

107.900 CÔNG VĂN (Xem & Tra cứu Công văn)
15.640 TIÊU CHUẨN VIỆT NAM (Xem & Tra cứu)

Công văn 3936/TM-XNK của Bộ Thương mại về việc triển khai Chiến lược phát triển xuất – nhập khẩu thời kỳ 2001-2010

CÔNG VĂN

CỦA BỘ THƯƠNG MẠI SỐ 3936/TM-XNK NGÀY 14 THÁNG 11 NĂM 2000 VỀ VIỆC TRIỂN KHAI CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN
XUẤT – NHẬP KHẨU THỜI KỲ 2001 – 2010

Kính gửi:

– Các đ/c Bộ trưởng và Thủ trưởng các ngành liên quan thuộc Chính phủ

– Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ

Thi hành Chỉ thị số 22/2000/CT-TTg ngày 27/10/2000 của Thủ tướng Chính phủ về chiến lược phát triển xuất – nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ thời kỳ 2001-2010, Bộ Thương mại xin trân trọng gửi tới các đồng chí bản tóm tắt chiến lược đã được Chính phủ thông qua để làm cơ sở cho việc xây dựng các chương trình cụ thể về xuất khẩu trong 10 năm tới.

Bộ Thương mại trân trọng đề nghị các Bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức truyền đạt những nội dung cơ bản của Chiến lược phát triển xuất – nhập khẩu thời kỳ 2001-2010 tới các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, quan tâm chỉ đạo xây dựng chương trình, kế hoạch đẩy mạnh xuất khẩu của ngành, địa phương mình để góp phần thực hiện thành công Chỉ thị số 22/2000/CT-TTg ngày 27/10/2000 của Thủ tướng Chính phủ.


BỘ THƯƠNG MẠI

CỘNG HÒA Xà HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Hà nội, ngày 11 tháng 11 năm 2000

BẢN TÓM TẮT

CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP KHẨU THỜI KỲ 2001-2010

Chiến lược phát triển xuất – nhập khẩu thời kỳ 2001-2010 được xây dựng nhằm cụ thể hóa những định hướng nêu trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng đang được thảo luận, đề ra những định hướng và biện pháp cụ thể để phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Chiến lược xuất – nhập khẩu được trình bày thành 3 phần. Phần thứ nhất đưa ra những đánh giá tổng quát về hoạt động xuất – nhập khẩu trong 10 năm trước. Phần thứ hai đưa ra những định hướng lớn cho công tác xuất – nhập khẩu. Phần thứ ba đề xuất các chính sách và giải pháp thực hiện Chiến lược.

PHẦN THỨ NHẤT
ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT HOẠT ĐỘNG
XUẤT – NHẬP KHẨU THỜI KỲ 1991-2000

I. NHỮNG THÀNH TỰU Đà ĐẠT ĐƯỢC:

1. Đã đạt được mục tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 1991-2000: kim ngạch xuất khẩu năm 2000 dự kiến đạt 13,5 tỷ USD, gấp 5,6 lần kim ngạch năm 1990 (2,4 tỷ USD). Nhịp độ tăng trưởng bình quân 18,4% năm, nhanh hơn tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 2,6 lần (GDP tăng bình quân 7,6%/năm).

2. Cơ cấu xuất khẩu đã được cải thiện theo hướng “tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô, tạo một số mặt hàng có khối lượng lớn và thị trường tương đối ổn định”. Tỷ trọng sản phẩm chế biến đã tăng từ 8% vào năm 1991 lên khoảng 40% vào năm 2000. Năm 1991 mới có 4 mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 100 triệu USD là dầu thô, thủy sản, gạo và hàng dệt may; nay có thêm 8 mặt hàng nữa là cà phê, cao su, điều, giày dép, than đá, điện tử, thủ công mỹ nghệ và rau quả. Về một số mặt hàng, nước ta đã chiếm lĩnh vị trí cao: gạo đứng hàng thứ hai trên thế giới, cà phê đứng thứ hai, hạt tiêu và hạt điều đứng thứ ba.

3. Việc thực hiện chủ trương “phát triển nhiều hình thức dịch vụ thu ngoại tệ, nhất là hoạt động du lịch” có nhiều tiến bộ. Khách du lịch nước ngoài vào Việt Nam đã tăng từ 250 ngàn lượt người vào năm 1991 lên khoảng 2 triệu lượt người vào năm 2000, doanh thu đạt khoảng 450 triệu USD. Lao động ở nước ngoài, tính đến năm 2000 có khoảng 9 vạn người, đem lại khoảng 500 triệu USD thu nhập hàng năm. Các dịch vụ khác như ngân hàng, hàng không, viễn thông, xây dựng, y tế, giáo dục.. thu được khoảng 1 tỷ USD vào năm 2000.

4. Nhập khẩu, về cơ bản, đã “phục vụ có hiệu quả cho phát triển sản xuất và đổi mới công nghệ, thúc đẩy nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hóa, đáp ứng nhu cầu cần thiết của đời sống”. Tư liệu sản xuất hiện nay chiếm gần 95% kim ngạch nhập khẩu, trong đó 26-27% là máy móc thiết bị, 68% là nguyên nhiên vật liệu; hàng tiêu dùng chỉ chiếm khoảng 5% (năm 1990 là 15%). Nhập siêu giảm cả về giá trị tuyệt đối lẫn tương đối: năm 1996 còn nhập siêu gần 4 tỷ USD, tới năm 1999 chỉ còn khoảng 0,2 tỷ USD; tỷ trọng nhập siêu so với xuất khẩu đã giảm từ 33% trong kỳ 1991-1995 xuống còn 18% trong kỳ 1996-2000.

5. Đã vượt qua được sự khủng hoảng thị trường vào đầu những năm 90 do chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu bị xóa bỏ; đã đẩy lùi được chính sách bao vây, cấm vận và về cơ bản thực hiện được chủ trương “đa dạng hóa thị trường và đa phương hóa quan hệ kinh tế… tích cực thâm nhập, tạo chỗ đứng ở các thị trường mới, phát triển các quan hệ mới”. Nay nước ta có quan hệ thương mại với trên 160 nước và vùng lãnh thổ trong đó đã ký Hiệp định Thương mại với 61 nước. Chủ trương “gia nhập các tổ chức và hiệp hội kinh tế quốc tế khác khi cần thiết và có điều kiện” đã được thực hiện bằng việc gia nhập ASEAN (1995), ASEM (1996), APEC (1998) và trở thành quan sát viên WTO (1995).

6. Chính phủ đã đổi mới một cách cơ bản cơ chế quản lý theo hướng mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu, giảm dần hàng rào phi thuế hạn chế cơ chế “xin cho”, giảm bớt sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nâng cao vai trò của các công cụ vĩ mô như thuế, lãi suất, tỷ giá. Chính phủ cũng đã dành sự quan tâm đặc biệt cho xuất khẩu thông qua các chương trình hỗ trợ như trợ cấp, trợ giá, lập Quỹ Hỗ trợ, Quỹ thưởng…. Hành lang pháp lý từng bước được hoàn thiện; trong đó đã thông qua được Luật Thương mại.

Nhìn chung lại, trong 10 năm qua, lĩnh vực suất – nhập khẩu đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, về cơ bản đã thực hiện được những chủ trương nêu ra trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2000, góp phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, thúc đẩy sản xuất, tạo thêm nhiều công ăn việc làm, thu ngoại tệ để trang trải nhu cầu nhập khẩu và tích lũy.

Những thành tựu trên bắt nguồn từ những nguyên nhân chủ yếu sau:

Một là, công cuộc đổi mới đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, cơ cấu sản xuất chuyển dịch dần, từ đó thúc đẩy xuất khẩu và cải thiện cơ cấu xuất – nhập khẩu.

Hai là, xuất khẩu được đặt thành một nhiệm vụ trọng tâm, sản xuất gắn liền với lưu thông, xuất khẩu; các cơ chế chính sách ngày càng phù hợp, thông thoáng, tạo thuận lợi cho các ngành sản xuất, các địa phương và các thành phần kinh tế tham gia xuất nhập khẩu.

Ba là, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới đã góp phần đẩy lùi chính sách bao vây cấm vận, mở rộng thị trường xuất – nhập khẩu. Đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong kinh doanh xuất nhập khẩu (từ 4% năm 1994 lên 22,3% năm 1999, nếu kể cả dầu khí thì lên tới 35%).

II. NHỮNG VẤN ĐỀ TỒN TẠI

1. Quy mô xuất khẩu còn quá nhỏ so với các nước trong khu vực; bình quân tính theo đầu người khoảng 175 USD năm 2000, trong khi Malaysia năm 1996 đã đạt mức 3700 USD, Thái Lan 933 USD và Philippin là 285 USD. Riêng Trung Quốc năm 1999 kim ngạch xuất khẩu đạt 195 tỷ USD bình quân đầu người 163 USD.

2. Việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất, ngành hàng chưa bám sát tín hiệu của thị trường thế giới nên nhiều sản phẩm làm ra không tiêu thụ được. Khả năng cạnh tranh của nhiều hàng hóa còn thấp do giá thành cao, chất lượng còn kém, mẫu mã chưa phù hợp với nhu cầu thị trường. Đầu tư vào khâu nâng cao khả năng cạnh tranh và khả năng tiêu thụ chưa thỏa đáng. Tỷ trọng hàng thô và sơ chế trong cơ cấu xuất khẩu còn khá cao. Trong số sản phẩm chế biến, hàng gia công còn chiếm tỷ trọng lớn. Tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng công nghệ và trí tuệ cao còn rất nhỏ. Xuất khẩu dịch vụ còn thấp xa so với tiềm năng.

3. Nhập khẩu chưa cải thiện được tình trạng lạc hậu về công nghệ ở một số ngành; ít tiếp cận được với công nghệ nguồn. Tình trạng nhập siêu lớn tuy đã được khắc phục nhưng chưa thật vững chắc.

4. Sự hiểu biết về thị trường ngoài còn hạn chế. Nhà nước chưa cung cấp được thông tin đầy đủ cho các doanh nghiệp. Ngược lại, nhiều doanh nghiệp còn ỷ lại vào Nhà nước, thụ động chờ khách hàng. Đối với một số thị trường, hàng xuất khẩu vẫn còn phải qua trung gian.

5. Việc hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới còn không ít lúng túng. Cho tới nay chưa hình thành được chiến lược tổng thể, chưa có lộ trình giảm thuế và hàng rào phi quan thuế dài hạn. Nhiều doanh nghiệp còn trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước và Nhà nước cũng chưa đưa ra được lộ trình giảm dần sự bảo hộ.

6. Công tác quản lý nhà nước về thương mại tuy đã có nhiều sự cải tiến nhưng nhìn chung còn khá thụ động. Sự phối hợp giữa các Bộ, ngành địa phương, đã có chuyển biến tích cực nhưng nhìn chung chưa tạo được sức mạnh tổng hợp. Còn thiếu cán bộ quản lý có trình độ.

Những tồn tại trên bắt nguồn từ những nguyên nhân chủ yếu sau:

Một là, trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp, cơ cấu kinh tế nói chung còn lạc hậu, từ năm 1997 lại chịu tác động không ít của cuộc khủng hoảng trong khu vực. Toàn bộ tình hình đó tác động tiêu cực tới hoạt động xuất – nhập khẩu.

Hai là, nền kinh tế nước ta trên thực tế mới chuyển sang cơ chế thị trường và mới tiếp cận với thị trường toàn cầu trong khoảng mươi năm trở lại đây, trình độ cán bộ còn chưa theo kịp nhu cầu nên không thể tránh khỏi bỡ ngỡ.

Ba là, còn lúng túng trong việc đề ra cơ chế quản lý nhằm thực hiện phương châm hướng mạnh ra xuất khẩu và chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Đặc biệt, nhiều chủ trương chính sách đã được ban hành nhưng việc triển khai thực hiện còn chậm, kém hiệu quả.


PHẦN THỨ HAI
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN XUẤT – NHẬP KHẨU
THỜI KỲ 2001-2010

I. TÌNH HÌNH TRONG NƯỚC, THẾ GIỚI VÀ NHỮNG THUẬN LỢI,
KHÓ KHĂN ĐẶT RA CHO HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU:

Bước vào thời kỳ 2001-2010, thế và lực của nước ta đã khác hẳn 10 năm trước đây. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, cơ sở hạ tầng và năng lực sản xuất được cải thiện đáng kể, thị trường được mở rộng. Tuy nhiên, trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp, GDP bình quân đầu người năm 2000 mới đạt gần 400 USD. Cơ cấu kinh tế và trình độ công nghệ nhìn chung còn lạc hậu. Khả năng cạnh tranh còn thấp ở cả cấp độ quốc gia, doanh nghiệp lẫn sản phẩm.

Trên bình diện quốc tế, khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, đưa thế giới vào thời kỳ pháttriển mới: thời kỳ kinh tế tri thức và xã hội thông tin. Các ngành dịch vụ và các ngành kinh tế giàu hàm lượng chất xám phát triển mạnh. Khái niệm thương mại được mở rộng, bao gồm cả các sản phẩm hữu hình của nền sản xuất truyền thống lẫn các sản phẩm “mềm” của nền sản xuất dựa vào tri thức. Mức độ phổ cập của mạng Internet khiến tỷ trọng của thương mại điện tử tăng nhanh, qua đó thay đổi hẳn phương thức kinh doanh (theo số liệu của UNCTAD thì năm 1995, giá trị thương mại điện tử mới có 100 triệu USD thì năm 1999 đã là 180 tỷ USD và năm 2002 sẽ lên tới khoảng 1.234 tỷ USD).

Xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa với các mặt tích cực và tiêu cực của nó sẽ tiếp tục diễn biến thông qua sự hợp tác – đấu tranh phức tạp giữa các đối tác. Đặc biệt, cuộc khủng hoảng vừa qua cho thấy kinh tế thế giới và khu vực còn ẩn chứa nhiều nhân tố bất trắc. Không loại trừ khả năng sẽ còn xảy ra các cuộc khủng hoảng về kinh tế và tài chính mới.

Trong nền kinh tế thế giới, các nước công nghiệp phát triển vẫn giữ vị trí áp đảo. Mỹ sẽ tiếp tục làsiêu cường hàng đầu, vừa cạnh tranh gay gắt, vừa tìm cách dung hòa lợi ích với Tây Âu, Nhật, Nga, Trung Quốc, và ở một chừng mực nào đó là n Độ, sẽ chiếm vị trí ngày càng lớn trong nền kinh tế và thương mại thế giới. Châu Á – Thái Bình Dương đang hồi phục nhanh chóng sau khủng hoảng, tiếp tục là một thị trường tiêu thụ rộng lớn và cùng châu Âu hình thành không gian kinh tế Á – Âu (Eurasia).

Nhìn chung lại, vào thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, hoạt động xuất – nhập khẩu của nước ta có những thuận lợi và khó khăn chủ yếu sau:

1. Về thuận lợi:

Như trên đã nói, “thế” và “lực” của nước ta đã khác trước. Các nguồn lựa như lao động, đất đai, tài nguyên… còn khá dồi dào. Cơ sở hạ tầng được cải thiện hơn, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế và đẩy mạnh xuất khẩu. Với bên ngoài, ta đã có quan hệ kinh tế – thương mại với nhiều nước và nhiều tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế. Hàng hóa Việt Nam đã có mặt tại tất cả các nước lớn và các trung tâm kinh tế lớn. Quá trình hội nhập sẽ tạo cơ hội cho ta mở rộng thị trường để phát triển kinh tế và tăng cường quan hệ thương mại.

2. Về khó khăn, thách thức:

– Nước ta vẫn là một nước nghèo và kém phát triển. Dự kiến 10 năm tới chỉ có thể đưa GDP lên gấp đôi. Cơ cấu sản xuất sẽ tiếp tục chuyển dịch theo hướng tiến bộ hơn song nhìn chung còn lạc hậu so với chiều hướng phát triển của thế giới. Thực trạng đó ảnh hưởng tiêu cực tới quy mô, cơ cấu và hiệu quả của hoạt động xuất – nhập khẩu.

– Năng lực cạnh tranh của quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm còn thấp trong khi nước ta lại phải nhập cuộc đua tranh ngày càng gay gắt trên thị trường khu vực và thế giới. Trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu và công tác tham mưu về chiến lược, chính sách còn bất cập.

– Kinh tế thế giới và khu vực, đặc biệt là tình hình tài chính – tiền tệ – tỷ giá, giá sản phẩm, nhất là giá nông sản, nhiên liệu còn chứa đựng nhiều nhân tố không ổn định, khó dự báo, có thể tác động tiêu cực tới nền kinh tế và kinh doanh xuất – nhập khẩu của nước ta.

Nhìn toàn cục, nước ta đứng trước nhiều thuận lợi hơn so với khi bước vào thập kỷ 90. Tuy nhiên, không thể xem thường các thách thức, khó khăn như đã trình bày trên.

II. MỤC TIÊU VÀ QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN XUẤT – NHẬP KHẨU:

Hoạt động xuất – nhập khẩu trong 10 năm tới cần phục vụ trực tiếp cho mục tiêu chung sẽ được thông qua tại Đại hội lần thứ IX của Đảng với nội dung cơ bản là: nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, góp phần đẩy mạnh CNH-HĐH, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ; chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, các loại sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ; về nhập khẩu chú trọng thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, nhất là công nghệ tiên tiến, bảo đảm cán cân thương mại ở mức hợp lý, tiến tới cân bằng kim ngạch xuất – nhập khẩu; mở rộng và đa dạng hóa thị trường và phương thức kinh doanh; hội nhập thắng lợi vào kinh tế khu vực và thế giới.

Để đạt các mục tiêu trên, cần nắm vững các quan điểm chỉ đạo sau:

Một là, tiếp tục kiên trì chủ trương dành ưu tiên cao cho xuất khẩu để thúc đẩy tăng trưởng GDP, phát triển sản xuất, thu hút lao động, có thêm ngoại tệ;

Hai là, chủ động hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ và định hướng XHCN, với kế hoạch tổng thể và lộ trình cũng như các bước đi hợp lý, phù hợp với trình độ phát triển của đất nước và quy định của các tổ chức mà ta tham gia;

Ba là, lấy việc phát huy nội lực, đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý; hoàn chỉnh hệ thống luật pháp; nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng như của toàn bộ nền kinh tế làm khâu then chốt, có ý nghĩa quyết định đối với việc mở rộng kinh doanh xuất – nhập khẩu, hội nhập quốc tế.

Bốn là, gắn kết thị trường trong nước với thị trường ngoài nước; vừa chú trọng thị trường trong nước, vừa ra sức mở rộng và đa dạng hóa thị trường ngoài.

Năm là, kiên trì chủ trương đa dạng hóa các thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất – nhập khẩu, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo;

III. CÁC CHỈ TIÊU CỤ THỂ:

A. VỀ QUY MÔ VÀ TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG

Các chỉ tiêu xuất – nhập khẩu một phần quan trọng tùy thuộc vào chỉ tiêu chung của nền kinh tế. Theo dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội thời kỳ 2001-2010 thì trong vòng 10 năm tới GDP sẽ tăng gấp đôi (bình quân hàng năm phải tăng khoảng 7,2%); giá trị sản lượng nông nghiệp tăng khoảng 4%/năm, vào năm 2010 sản lượng lương thực đạt 40 triệu tấn, nông nghiệp chiếm tỷ trọng khoảng 16-17% GDP trong đó tỷ trọng sản phẩm chăn nuôi tăng từ 18,6% lên 20-25%, thủy sản đạt sản lượng 2,5-3 triệu tấn; giá trị gia tăng của công nghiệp tăng bình quân hàng năm 8-9%, đến năm 2010 công nghiệp chiếm tỷ trọng 40-41% GDP, tỷ trọng công nghiệp chế tác chiếm 80% giá trị sản xuất công nghiệp.

Dự thảo Chiến lược còn dự kiến nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu nhanh gấp đôi nhịp độ tăng trường GDP, tức là khoảng 14,4%/năm, trong đó nông sản xuất khẩu qua chế biến đạt kim ngạch 6-7 tỷ USD vào năm 2010, lương thực bình quân 4-5 triệu tấn/năm, khoáng sản đạt kim ngạch khoảng 3 tỷ USD, sản phẩm công nghiệp chiếm 70-80% tổng kim ngạch xuất khẩu (các chỉ tiêu này sẽ còn được điều chỉnh).

Việc gia tăng xuất khẩu 14,4%/năm là nhiệm vụ không đơn giản vì:

– Xuất phát điểm của thời kỳ 2001-2010 cao hơn nhiều so với thời kỳ 1991-2000 (13,5 tỷ USD so với 2,4 tỷ USD). Với những hạn chế còn tồn tại trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là những hạn chế mang tính cơ cấu, thì việc gia tăng giá trị tuyệt đối ở mức trên 2 tỷ USD/năm đòi hỏi sự nỗ lực cao độ trong công tác xuất nhập khẩu.

– Trong 10 năm qua, khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp một phần khá lớn cho tăng trưởng xuất khẩu, mở ra những mặt hàng mới và khai phá các thị trường mới. Kể từ năm 1998, đầu tư nước ngoài vào nước ta có chiều hướng chững lại và giảm dần. Hiện nay chưa rõ khả năng có chặn đứng được chiều hướng này không. Nếu chiều hướng đó còn tiếp diễn thì có thể ảnh hưởng đáng kể tới tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, chí ít là trong những năm đầu của thời kỳ 2001-2010.

Tuy nhiên, yêu cầu tăng nhanh quy mô và tốc độ xuất khẩu là một nhiệm vụ cấp thiết đối với nền kinh tế nước ta. Một mặt nó khắc phục nguy cơ tụt hậu không chỉ đối với các nước phát triển trên thế giới mà ngay cả với các nước trong khu vực. Hiện nay kim ngạch xuất khẩu của Malaysia cao hơn ta khoảng 6 lần, Thái Lan hơn ta khoảng 4,5 lần. Nếu ta phấn đấu đến năm 2010 đạt kim ngạch xuất khẩu khoảng 60 tỷ USD và với mức tăng trưởng như hiện nay của hai nước thì khoảng cách đó có thể rút ngắn xuống bằng 1/3 Malaysia và 1/2 Thái Lan.Mặt khác, nó còn tạo ra nguồn ngoại tệ cân đối nhập khẩu, tăng tích lũy ngoại tệ, tiếp cận nền khoa học công nghệ cao của thế giới phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo công ăn việc làm cho người lao động.

Dựatrên kinh nghiệm 10 năm qua kết hợp với những dự báo về sản xuất và thị trường trong 10 năm tới và trên cơ sở phát huy nội lực, có tính đến sự thay đổi có tính đột biến, Bộ Thương mại đề xuất phương án phấn đấu tăng trưởng xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2010 như sau:

1. Về xuất khẩu:

a) Xuất khẩu hàng hóa:

– Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 15%/năm, trong đó thời kỳ 2001-2005 tăng 16%/năm, thời kỳ 2006-2010 tăng 14%/năm.

– Giá trị tăng từ khoảng 13,5 tỷ USD năm 2000 lên 28,4 tỷ USD vào năm 2005 và 54,6 tỷ USD vào năm 2010, gấp hơn 4 lần 2000.

b) Xuất khẩu dịch vụ:

– Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 15%/năm.

– Giá trị tăng từ khoảng 2 tỷ USD năm 2000 lên 4 tỷ USD vào năm 2005 và 8,1 tỷ USD vào năm 2010, tức là gấp hơn 4 lần;

c) Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng từ khoảng 15,5 tỷ USD vào năm 2000 lên 32,4 tỷ USD vào năm 2005 và 62,7 tỷ USD vào năm 2010 (hơn 4 lần);

2. Về nhập khẩu:

Do nước ta còn đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trình độ phát triển kinh tế còn thấp nên chưa thể xóa bỏ được ngay tình trạng nhập siêu. Tuy nhiên cần phải rất tiết kiệm ngoại tệ trong nhập khẩu, chỉ nhập khẩu những hàng hóa cần thiết, máy móc thiết bị công nghệ mới và sản xuất ra nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, sản xuất để giảm thiểu nhu cầu nhập khẩu, phải giữ được thế chủ động trong nhập khẩu, kiềm chế được nhập siêu và giảm dần tỷ lệ nhập siêu tiến tới sớm cân bằng xuất nhập và xuất siêu. Theo hướng đó dự kiến nhập khẩu như sau:

a) Nhập khẩu hàng hóa:

– Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 14%/năm, trong đó thời kỳ 2001-2005 là 15% và thời kỳ 2006-2010 là 13%.

– Giá trị kim ngạch tăng từ khoảng 14,5 tỷ USD năm 2000 lên 29,2 tỷ USD năm 2005 (cả thời kỳ 2001-2005 nhập khẩu 112 tỷ USD) và 53,7 tỷ USD vào năm 2010.

b) Nhập khẩu dịch vụ:

– Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 11%/năm.

– Giá trị tăng từ khoảng 1,2 tỷ USD năm 2000 lên 2,02 tỷ USD năm 2005 và 3,4 tỷ USD năm 2010.

c) Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ:

Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng từ khoảng 15,7 tỷ USD năm 2000 lên 31,2 tỷ USD năm 2005 và 57,14 tỷ USD năm 2010.

Như vậy, trong 5 năm đầu (2001-2005) nhập siêu về hàng hóa giảm dần, mỗi năm bình quân 900 triệu USD và cả thời kỳ là 4,73 tỷ USD; 5 năm sau (2006-2010) nhập siêu tiếp tục giảm. Đến năm 2008 cân bằng xuất nhập hàng hóa phấn đấu xuất siêu khoảng 1 tỷ USD vào năm 2010. Nếu tính cả xuất khẩu dịch vụ thì tới năm 2002 đã cân bằng xuất nhập khẩu và bắt đầu xuất siêu, năm 2010 xuất siêu 5,5 tỷ USD.

Tuy nhiên, như trên đã nói, tình hình kinh tế khu vực và thế giới còn ẩn chứa nhiều nhân tố khó lường; do đó cần đề phòng những tình huống bất trắc nảy sinh.

B. VỀ CƠ CẤU HÀNG HÓA XUẤT – NHẬP KHẨU VÀ CƠ CẤU DỊCH VỤ

1. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu:

Cơ cấu xuất khẩu hàng hóa trong 10 năm tới cần được chuyển dịch theo hướng chủ yếu sau:

– Trước mắt huy động mọi nguồn lực hiện có thể có để đẩy mạnh xuất khẩu, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ;

– Đồng thời cần chủ động gia tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến và chế tạo với giá trị gia tăng ngày càng cao, chú trọng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ và trí thức cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô;

– Mặt hàng, chất lượng, mẫu mã cần đáp ứng nhu cầu của từng thị trường;

– Rất chú trọng việc gia tăng các hoạt động dịch vụ.

Tiếc rằng, các mặt hàng xuất nhập khẩu mới được đề cập chủ yếu ở trạng thái “tĩnh”, chưa thể dự báo được những mặt hàng sẽ xuất hiện trong tương lai do thị trường mách bảo và năng lực sản xuất của ta.

Theo các hướng nói trên, chính sách các nhóm hàng có thể hình dung như sau:

1.1. Nhóm nguyên nhiên liệu:

Hiện nay nhóm này, với hai mặt hàng chính là dầu thô và than đá, đang chiếm khoảng trên 20% kim ngạch xuất khẩu của nước ta. Sau khi nhà máy lọc dầu Dung Quất đi vào hoạt động, lượng dầu thô xuất khẩu sẽ giảm dần. Dự kiến vào năm 2005 lượng dầu thô xuất khẩu chỉ còn khoảng gần 12 triệu tấn (hiện nay là 16 triệu tấn). Tới năm 2010 có hai phương án, tùy thuộc vào lượng khai thác:

– Nếu khai thác 14 – 16 triệu tấn thì sẽ sử dụng trong nước khoảng 12 triệu tấn, xuất khẩu 2 – 4 triệu tấn;

– Nếu khai thác 20 triệu tấn thì có khả năng xuất khẩu khoảng 8 triệu tấn.

Dù theo phương án nào thì kim ngạch dầu thô cũng sẽ giảm đáng kể vào năm 2010 (theo phương án 1 thì tỷ trọng dầu thô trong giá trị xuất khẩu dự kiến sẽ chỉ còn dưới 1% so với 22% hiện nay; theo phương án 2 thì tỷ lệ đó sẽ còn khoảng 3%). Thị trường xuất khẩu chính vẫn là Ô-xtrây-lia, Singgapore, Nhật Bản và Trung Quốc, có thể thêm Hoa Kỳ.

Việc giảm xuất khẩu dầu thô sẽ đi đôi với việc giảm nhập khẩu sản phẩm xăng dầu từ nước ngoài. Dự kiến đến năm 2010 sản xuất trong nước sẽ đáp ứng được gần 80% nhu cầu về sản phẩm dầu và khí, tức là khoảng 13 triệu tấn sản phẩm/năm, trị giá trên 3 tỷ USD. Nhập khẩu xăng dầu vào năm 2010 chỉ còn khoảng 4 triệu tấn, giảm 50% so với 8 triệu tấn hiện nay; nếu tính theo thời giá hiện nay thì sẽ giảm khoảng 850-900 triệu USD.

Về than đá, dự kiến nhu cầu nội địa sẽ tăng đáng kể do xây các nhà máy nhiệt điện mới nên dù sản lượng có thể lên tới 15 triệu tấn/năm (hiện nay là 10-12 triệu tấn/năm) xuất khẩu cũng sẽ chỉ dao động ở mức 4 triệu tấn/năm trong 10 năm tới, mang lại kim ngạch mỗi năm khoảng 120-150 triệu USD. Nhìn chung, giá xuất khẩu than khó có khả năng tăng đột biến do nguồn cung trên thị trường thế giới tương đối dồi dào, vả lại vì lý do môi trường nên cầu có xu hướng giảm. Nhiệm vụ chủ yếu trong những năm tới là cố gắng duy trì những thị trường đã có như Nhật Bản, Trung Quốc, Tây Âu… và tăng cường thâm nhập vào thị trường Thái Lan, Hàn Quốc…

Khả năng tăng xuất khẩu các loại khoáng sản khác để bù vào thiếu hụt của dầu thô là rất hạn chế. Cho đến năm 2010, quặng apatit khai thác ra chỉ có thể đáp ứng một phần cho nhu cầu sản xuất phân bón, chưa có khả năng tham gia xuất khẩu. Khả năng sản xuất và xuất khẩu alumin sẽ tùy thuộc vào việc triển khai dự án (nếu có thì chỉ từ sau 2005). Quặng sắt khó có khả năng xuất khẩu với số lượng lớn bởi nhu cầu trong nước sẽ tăng mạnh, khả năng khai thác quặng Thạch Khê còn chưa rõ nét. Đất hiếm tuy có nhưng trữ lượng thương mại không nhiều, việc xuất khẩu lại rất khó khăn do công nghệ chế biến phức tạp, cung cầu thế giới đã ổn định. Các loại quặng khác trữ lượng đều không đáng kể.

Như vậy, tới năm 2005, nhóm nguyên nhiên liệu có khả năng chỉ còn đóng góp được khoảng 9% kim ngạch xuất khẩu (2,5 tỷ USD) so với trên 20% hiện nay; đến năm 2010, tỷ trọng của nhóm này sẽ giảm xuống còn chưa đầy 1% (dưới 500 triệu USD) hoặc 3,5% (khoảng 1,75 tỷ USD), tùy theo phương án khai thác dầu thô. Vì vậy, việc tìm ra các mặt hàng mới để thay thế là một thách thức lớn đối với việc gia tăng xuất khẩu.

1.2. Nhóm hàng nông, lâm, thủy sản:

Hiện nay nhóm này đang chiếm gần 25% kim ngạch xuất khẩu với những mặt hàng chủ yếu là gạo, cà phê, cao su, chè, rau quả, thủy sản, hạt tiêu và nhân điều (trừ mặt hàng chè, tất cả các mặt hàng khác đều đạt kim ngạch trên 100 triệu USD/năm). Do sản xuất nông nghiệp phải chịu những hạn chế mang tính cơ cấu (như diện tích có hạn, khả năng khai thác và đánh bắt có hạn…) và thời tiết nên theo dự thảo Chiến lược chung, tốc độ tăng trưởng của nhóm này sẽ chỉ ở mức 4%/năm trong toàn kỳ 2001-2010. Bên cạnh đó, nhu cầu của thị trường thế giới cũng có hạn, giá cả lại không ổn định. Vì vậy, dù kim ngạch tuyệt đối vẫn tăng nhưng tỷ trọng của nhóm sẽ giảm dần xuống còn 22% (tương đương 5,85 tỷ USD) vào năm 2005 và 17,2% (tương đương 8-8,6 tỷ USD) vào năm 2010.

Hướng phát triển chủ đạo của nhóm hàng này trong 10 năm tới là chuyển dịch cơ cấu toàn lĩnh vực, trong mỗi ngành, thậm chí trong từng loại sản phẩm, nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng. Để đạt mục tiêu này, cần có sự đầu tư thích đáng vào khâu giống và công nghệ sau thu hoạch, kể cả đóng gói, bảo quản, vận chuyển… để tạo ra những đột phá về năng suất và chất lượng sản phẩm.

Hạt nhân tăng trưởng của nhóm sẽ là thủy sản bởi tiềm năng khai thác và nuôi trồng còn nhiều, nhu cầu thị trường thế giới tăng khá ổn định, thuế suất thấp. Năm 1985 xuất khẩu thủy sản thế giới mới đạt 17,2 tỷ USD, tới năm 1995 đã đạt 52 tỷ USD, tức là tăng bình quân mỗi năm trên 13%. Điều này liên quan tới xu thế tiêu dùng của thế giới là giảm tiêu thụ thịt, tăng tiêu thụ thủy sản. Với sản lượng dự kiến đạt 3,7 triệu tấn thì kim ngạch xuất khẩu thủy sản của ta sẽ đạt 2,5 tỷ USD vào năm 2005 và 3,2-3,5 tỷ USD vào năm 2010, chiếm 40% tổng kim ngạch của nhóm nông lâm hải sản. Thị trường chính sẽ là Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ, Trung Quốc… Để bảo đảm tốc độ tăng trưởng ổn định cho mặt hàng này, cần tiếp tục chú trọng đầu tư để phát triển đánh bắt xa bờ và nuôi trồng, chuyển từ quảng canh sang thâm canh, phát triển những mặt hàng có kim ngạch cao như tôm, nhuyễn thể. Công nghệ sau thu hoạch cũng cần có sự quan tâm thỏa đáng để nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và vệ sinh thực phẩm của sản phẩm xuất khẩu.

Về gạo, do nhu cầu thế giới tương đối ổn định, khoảng trên 20 triệu tấn/năm, nhiều nước nhập khẩu nay chú trọng an ninh lương thực, thâm canh tăng năng suất cây trồng, gia tăng bảo hộ, giảm nhập khẩu. Trong hoàn cảnh đó, dự kiến trong suốt thời kỳ 2001-2010 nhiều lắm ta sẽ chỉ có thể xuất khẩu được khoảng 4 – 4,5 triệu tấn/năm, thu về mỗi năm khoảng trên 1 tỷ USD. Để nâng cao hơn nữa kim ngạch, cần đầu tư để cải thiện cơ cấu và chất lượng gạo xuất khẩu; khai thác các thị trường mới (như Trung Đông, Châu Phi, Nam Mỹ) và ổn định các thị trường đã có như Indonesia, Philippines… thông qua các hợp đồng G-to-G, nghiên cứu khả năng phối hợp với Thái Lan để điều tiết nguồn cung, ổn định giá cả thị trường, tăng hiệu quả xuất khẩu gạo.

Về nhân điều còn có thể tăng kim ngạch từ 115 triệu USD năm 2000 lên tới khoảng 400 triệu USD hay cao hơn vào năm 2010 vì nhu cầu còn lớn, liên tục tăng (một số dự báo cho thấy nhu cầu sẽ tăng bình quân 7%/năm trong 10 năm tới và sẽ đạt mức 160-200.000 tấn, giá xuất khẩu cũng tăng, từ 3.799 USD/tấn năm 1994 lên 5.984 USD/tấn), vả lại tiềm năng của nước ta còn lớn. Thị trường chủ yếu là Mỹ, Eu, Ô-xtrây-lia, Trung Quốc.

Hạt tiêu xuất khẩu trên thế giới khoảng 200.000 tấn/năm, giá cả dao động lớn. Ta có khả năng mở rộng sản xuất, gia tăng sản lượng, từ đó có khả năng tăng lên thành 230-250 triệu USD so với 160 triệu USD hiện nay. Thị trường chủ yếu là Châu Âu, Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Trung Đông.

Về các loại rau, hoa và quả khác, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 182/1999/QĐ-TTg ngày 03/9/1999 phê duyệt đề án phát triển đến năm 2010, theo đó kim ngạch xuất khẩu rau, hoa và quả sẽ được đưa lên khoảng 1,2 tỷ USD với thị trường là Nhật, Nga, Trung Quốc, Châu Âu. Nếu có quy hoạch các vùng chuyên canh và đầu tư thỏa đáng vào các khâu như giống, kỹ thuật trồng và chăm sóc, công nghệ sau thu hoạch… thì thậm chí có thể thực hiện vượt mục tiêu trên, đạt kim ngạch 1,6 tỷ USD.

Về cà-phê, do sản lượng và giá cả phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết nên rất khó dự báo chuẩn xác về khối lượng và giá trị xuất khẩu trong những năm tới. FAO dự báo tới năm 2005, sản lượng thế giới sẽ khoảng 7,3 triệu tấn so với 6,3-6,6 triệu tấn hiện nay. Nếu thuận lợi, xuất khẩu có thể đạt 750 ngàn tấn vào năm 2010 với kim ngạch khoảng 850 triệu USD, đưa Việt Nam vượt qua Colombia để trở thành nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai trên thế giới. Để đạt giá trị cao, nên chú trọng phát triển cà phê chè (arabica), tự tổ chức hoặc thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực chế biến cà phê rang xay và cà phê hòa tan. Thị trường xuất khẩu chính vẫn là EU, Hoa Kỳ, Singapore và Nhật Bản. Nói chung, xuất khẩu cà phê sẽ không gặp khó khăn lớn về thị trường nhưng về giá cả sẽ khó ổn định.

Với hai mặt hàng quan trọng còn lại là cao su và chè, Chính phủ đều đã có đề án phát triển. Tuy nhiên, cần tính lại vấn đề phát triển cao su vì nhu cầu của thế giới tăng chậm, chỉ trên 2%/năm, năm 2000 khoảng 7 triệu tấn, giá cả có xu hướng xuống thấp. Dự kiến kim ngạch xuất khẩu cao su có thể đạt 500 triệu USD vào năm 2010. Nhu cầu chè trên thế giới tiếp tục tăng, hiện nay đạt mức 1,3 triệu tấn/năm; ta có tiềm năng phát triển, có thể đưa kim ngạch chè lên mức 200 triệu USD, tức là gấp 4 lần hiện nay, trong đó cần nỗ lực tăng tỷ trọng chè chất lượng cao cho các thị trường khó tính như Nhật Bản, Đài Loan, Trung Đông đi đôi với việc tăng cường hợp tác đóng gói tại Nga để đẩy mạnh tiêu thụ trên thị trường này.

Về thịt thì hiện nay sản lượng của nước ta còn rất nhỏ bé (chỉ bằng 0,7% của thế giới), chất lượng còn xa so với nhu cầu trên thị trường thế giới. Muốn gia tăng xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi thì khâu then chốt là đầu tư vào khâu nâng cao chất lượng vật nuôi phù hợp với yêu cầu của thị trường thế giới, cải thiện mạnh mẽ công nghệ chế biến, vệ sinh thực phẩm, phương tiện vận chuyển, đổi mới phương thức chăn nuôi từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn, hiện đại. Thị trường định hướng trước mắt là Hongkong, Nga, về lâu dài là Singapore và Nhật Bản.

Ngoài ra, một loạt sản phẩm còn có thể phát triển để hoặc thay thế nhập khẩu hoặc góp phần xuất khẩu như cây họ đậu, cây có dầu, tơ tằm, bông…

Đối với toàn bộ nhóm nông thủy sản cần rất chú trọng khâu cải tạo giống cây trồng vật nuôi, chế biến, bảo quản, vệ sinh thực phẩm, chuyên chở, đóng gói, phân phối để có thể đưa thẳng tới khâu tiêu dùng, từ đó nâng cao giá trị gia tăng.

Nhìn chung lại, kim ngạch của nhóm nguyên nhiên liệu và nông lâm hải sản tổng cộng sẽ đạt từ 10 đến 10,35 tỷ USD vào năm 2010, chiếm khoảng 20-21% kim ngạch xuất khẩu so với trên 40% hiện nay theo hướng gia tăng chất lượng và giá trị gia tăng. Phần còn lại phải là các mặt hàng chế biến và chế tạo. Đây là bài toán chủ yếu cho hoạt động xuất nhập khẩu trong thời gian 10 năm tới.

1.3. Sản phẩm chế biến và chế tạo:

Hiện nay kim ngạch của nhóm này đã đạt trên 4 tỷ USD, tức là trên 30% kim ngạch xuất khẩu. Mục tiêu phấn đấu vào năm 2010 là 20-21 tỷ USD, tăng hơn 5 lần so với hiện nay và chiếm khoảng 40% kim ngạch xuất khẩu.

Hạt nhân của nhóm, cho tới năm 2010, vẫn sẽ là hai mặt hàng dệt may và giầy dép, là những lĩnh vực có thể thu hút nhiều lao động. Kim ngạch của mỗi mặt hàng phải đạt khoảng 7-7,5 tỷ USD. Như vậy, dệt may sẽ phải tăng bình quân 14%/năm, giày dép tăng bình quân 15-16%/năm. Nay đã ký được Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa kỳ thì mục tiêu tăng trưởng trên là khả thi. Tuy nhiên, vẫn cần tiếp tục mở thêm thị trường Trung Đông và Đông Âu. Sau các thỏa thuận đạt được với Hoa Kỳ và EU, Trung Quốc sẽ trở thành thành viên của WTO; khả năng cạnh tranh của hàng hóa Trung Quốc, trong đó có dệt may và giày dép, vốn đã rất mạnh, sẽ được nâng lên do được hưởng những ưu đãi mới trên các thị trường rộng lớn như Hoa Kỳ và EU, gây khó khăn không nhỏ cho hàng hóa của ta.

Để khắc phục khó khăn, đẩy mạnh xuất khẩu, hướng phát triển cơ bản của hai ngành dệt may và giày dép trong 10 năm tới là gia tăng nỗ lực thâm nhập các thị trường mới, đặc biệt là thị trường Mỹ, Trung Đông và châu Đại Dương; ổn định và tăng thị phần trên các thị trường quen thuộc như EU, Nhật Bản, đặc biệt là Nhật Bản bởi đây là thị trường phi quota; chuyển dần từ hình thức gia công là chính sang nội địa hóa trên cơ sởtăng cường đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu đầu vào, tạo nhãn hiệu có uy tín; chuyển mạnh sang bán FOB; thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, nhất là đầu tư từ EU, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan… để tăng cường năng lực thâm nhập trở lại các thị trường này và đi vào các thị trường khác. Chính sách thương mại của Nhà nước, mà cụ thể là chính sách thuế, chính sách thị trường, cần hỗ trợ đắc lực cho tiến trình này.

Do mục tiêu kim ngạch của toàn nhóm chế biến, chế tạo vào năm 2010 là trên 20 tỷ USD nên ngoài dệt may và giày dép cần nỗ lực tiếp cận thị trường quốc tế, dự báo nhu cầu của người tiêu dùng để từ đó cố gắng tạo ra những ngành hàng mới.

Trước mắt, chủ yếu dựa trên cơ cấu đầu tư và thực tiễn xuất khẩu trong những năm qua cũng như thị trường quốc tế, có thể dự báo những mặt hàng như:

Thủ công mỹ nghệ: Kim ngạch hiện nay đã đạt xấp xỉ 200 triệu USD. Đây là ngành hàng mà ta còn nhiều tiềm năng, dung lượng thị trường thế giới còn lớn. Nếu có chính sách đúng đắn để khơi dậy tiềm năng thì có thể nâng kim ngạch lên 800 triệu USD vào năm 2005 và 1,5 tỷ USD vào năm 2010, trong đó hàng gốm sứ chiếm khoảng 60%. Thị trường định hướng là EU, Nhật Bản và Hoa Kỳ. Các thị trường như Trung Đông, Châu Đại dương cũng là thị trường tiềm tàng, cần nỗ lực phát triển (Bộ Thương mại đã trình Thủ tướng Chính phủ đề án riêng về mặt hàng này).

Thực phẩm chế biến: Kim ngạch hiện nay mới đạt 100 triệu USD, tập trung chủ yếu vào những mặt hàng không đòi hỏi nhiều về công nghệ như bánh kẹo, sữa, mỳ ăn liền, phở ăn liền, bột ngọt, dầu thực vật… Tiềm năng phát triển của ngành hàng này còn khá lớn bởi ở một số nước có nhu cầu, chưa kể cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài khá đông. Dự báo tới năm 2005 kim ngạch xuất khẩu có khả năng vượt 200 triệu USD và tới năm 2010 đạt 700 triệu USD với thị trường tiêu thụ chủ yếu là Nga, Đông Âu, EU, Ô-xtrây-lia và Hoa Kỳ. Trong nhóm này, cần hết sức chú trọng mặt hàng dầu thực vật bởi nước ta là nước có tiềm năng về cây có dầu (dừa, đậu nành, vừng, lạc…). Nhà nước cần quy hoạch lại các vùng trồng cây có dầu để tập trung nguồn nguyên liệu đủ dùng cho các nhà máy chế biến, hạn chế dần lượng dầu nguyên liệu nhập khẩu. Trung Quốc và Trung Đông là thị trường xuất khẩu đầy tiềm năng đối với mặt hàng này.

Sản phẩm gỗ: Với thế mạnh về nhân công và tay nghề, đây là ngành có tiềm năng phát triển ở nước ta. Ngành còn có một thuận lợi nữa là nhu cầu thế giới tăng khá ổn định (bình quân mỗi năm tăng khoảng 7-8% trong suốt thời gian từ 1994 đến 1998). Sau khi chuyển hướng sang sử dụng nguyên liệu nhập, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của ta (không kể gỗ mỹ nghệ) đang hồi phục dần. Dự kiến đến năm 2005 có thể đạt 600 triệu USD và tới năm 2010 đạt 1,2 tỷ USD. Để phát triển ngành này, cần có đầu tư thỏa đáng vào khâu trồng rừng và đơn giản hóa thủ tục trong xuất khẩu sản phẩm gỗ, nhất là sản phẩm gỗ rừng tự nhiên.

Hóa phẩm tiêu dùng: Đây là ngành hàng mới xuất hiện trong vài năm gần đây với hạt nhân là bột giặt, chất tẩy rửa, mỹ phẩm… Kim ngạch hàng năm đã đạt xấp xỉ 30 triệu USD. Thị trường tiêu thụ chính là Trung Quốc, Campuchia, I-rắc và một số nước đang phát triển. Một số lượng nhỏ đã được xuất sang các nước ASEAN và EU. Ta hoàn toàn có khả năng phát triển xuất khẩu những mặt hàng này. Mục tiêu kim ngạch vào năm 2005 là 200 triệu USD, vào năm 2010 là 600 triệu USD. Thị trường chính trong thời kỳ 2001-2005 vẫn sẽ là Trung Quốc, Campuchia, các nước ASEAN và một số nước đang phát triển; sang thời kỳ 2006-2010 cố gắng len vào các thị trường khác như EU, Nhật Bản, Nga, Hoa Kỳ.

Sản phẩm cơ khí, điện: Đây sẽ là ngành hàng hoàn toàn mới trong 10 năm tới. Mặc dù kim ngạch hiện nay mới đạt trên dưới 10 triệu USD nhưng hoàn toàn có khả năng tăng kim ngạch lên 300 triệu USD vào năm 2005 và 1 tỷ USD vào năm 2010. Nên có chính sách thu hút đầu tư nước ngoài hướng về xuất khẩu. Trong lĩnh vực này đang có những dấu hiệu khá tích cực (ví dụ, công ty Cadivi đã bắt đầu xuất khẩu cáp điện ra nước ngoài với khối lượng lớn; 14 dự án sản xuất xe đạp 100% vốn Đài Loan đã được cấp giấy phép, 16 dự án nữa đang chờ cấp giấy phép, tổng công suất khoảng 6 triệu xe/năm, xuất khẩu 80%; quạt điện, máy xay xát, động cơ… cũng đang tích cực tìm đường xuất khẩu ra nước ngoài). Thị trường định hướng đối với xe đạp là EU và Hoa Kỳ, với các sản phẩm khác là các nước ASEAN, Trung Đông và Châu Phi.

Sản phẩm nhựa: Kết quả xuất khẩu sản phẩm nhựa trong những năm gần đây là đáng khích lệ. Từ chỗ đáp ứng chủ yếu nhu cầu trong nước, nước ta đã bắt đầu xuất khẩu sang Campuchia, Lào, Trung Quốc và các nước Nam Á như n Độ, Sri Lanka. Mặt hàng chủ yếu là bạt nhựa và đồ nhựa gia dụng. Trong những năm tới, cần có đầu tư thỏa đáng vào khâu chất lượng và mẫu mã để mở rộng thị phần trên các thị trường hiện có, tăng cường thâm nhập các thị trường mới như Nhật Bản, EU và Hoa Kỳ. Về sản phẩm, bên cạnh đồ nhựa gia dụng cần chú ý phát triển nhựa công nghiệp và đồ chơi bằng nhựa. Nếu làm được những việc này, kim ngạch có thể đạt 200 triệu USD vào năm 2005 và 600 triệu USD vào năm2010.

Như vậy, bên cạnh dệt may và giày dép, trong 10 năm tới đây cần chú ý phát triển những ngành kết hợp giữa lao động giản đơn với công nghệ trung bình mà cụ thể là thủ công mỹ nghệ, thực phẩm chế biến, sản phẩm gỗ, hóa phẩm tiêu dùng, sản phẩm nhựa và sản phẩm cơ khí – điện; phấn đấu đưa kim ngạch của nhóm hàng mới này lên 4,5-5 tỷ USD hoặc hơn vào năm 2010. Có thể nói đây là khâu đột phá của xuất khẩu Việt Nam trong những năm trước mắt (2001-2005).

1.4. Nhóm hàng vật liệu xây dựng

Nước ta có nguồn nguyên liệu dồi dào để sản xuất vật liệu xây dựng không những có thể cung cấp đủ cho nhu cầu trong nước mà còn có khả năng xuất khẩu lớn.

Ngành sản xuất xi măng là ngành công nghiệp phát triển mạnh trong mấy năm gần đây, sản lượng hàng năm (± 13 triệu tấn) đã cung ứng đủ cho nhu cầu trong nước. Theo chiến lược phát triển sản xuất xi măng thì các dự án phát triển xi măng trong vài năm tới có khả năng dư thừa hàng năm khoảng từ 2-3 triệu tấn để xuất khẩu (năm 2001 có thể xuất khẩu ± 300.000 ngàn tấn). Tuy nhiên, do các nhà máy xi măng mới đầu tư, khấu hao lớn nên giá thành sản xuất còn cao, khả năng cạnh tranh yếu hơn so với xi măng các nước trong khu vực, do đó khâu then chốt với xi măng là hạ giá thành.

Ngành công nghiệp sản xuất gạch ốp lát và sứ vệ sinh trong nước tuy mới ra đời nhưng đã sớm hòa nhập vào môi trường cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực. Về mặt công nghệ các nhà máy của Việt Nam nhập công nghệ tiên tiến nên chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn ISO, hoàn toàn có khả năng cạnh tranh với hàng ngoại. Mặt khác, đây là ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, sử dụng tới 80-87% nguyên liệu (đất sét, fensfat, thạch cao, bột màu, gas…) trong nước. Sứ vệ sinh của Việt Nam đã bắt đầu có mặt trên các thị trường Nhật Bản, Nga, Myanmar, Bangladesh, Pháp, Ucraina. Đây là những mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu lớn trong tương lai.

Do có nguồn nguyên liệu cát tốt để sản xuất kính, theo kế hoạch thì từ nay đến năm 2010 ngành công nghiệp kính sẽ trở thành ngành công nghiệp vật liệu xây dựng mũi nhọn. Dự tính năm 2010 năng lực sản xuất đạt 60 triệu m2, đáp ứng đủ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Hiện nay kính của Việt Nam sản xuất đã được xuất khẩu sang Campuchia; trong tương lai cần mở rộng thêm thị trường.

1.5. Sản phẩm hàm lượng công nghệ và chất xám cao:

Đây là ngành hàng mới xuất hiện nhưng đã mang lại kim ngạch xuất khẩu khá lớn, khoảng 700 triệu USD vào năm 2000. Hạt nhân là hàng điện tử và tin học. Với xu thế phân công lao động theo chiều sâu trên thế giới hiện nay, ta hoàn toàn có khả năng phát triển hơn nữa những mặt hàng này, trước mắt là gia công rồi tiến tới nội hóa dần. Vấn đề cốt lõi là có cơ chế chính sách khuyến khích, phát triển nguồn nhân lực. Mục tiêu kim ngạch xuất khẩu đặt ra cho ngành là 2,5 tỷ USD vào năm 2005 (riêng phần mềm Bộ Khoa học – Công nghệ và môi trường dự kiến là 350 – 500 triệu USD) và 6-7 tỷ USD vào năm 2010 (riêng phần mềm là 1 tỷ USD). Về thị trường thì nhằm vào các nước công nghiệp phát triển (phần mềm) và cả các nước ĐPT (phần cứng). Cần coi đây là khâu đột phá trong 5 năm cuối của kỳ 2001-2010.

2. Cơ cấu dịch vụ xuất khẩu:

Lâu nay ở ta ít chú trọng tới xuất khẩu dịch vụ, thậm chí không có số liệu thống kê một cách có hệ thống. Tuy nhiên qua tổng hợp số liệu của các ngành, có thể sơ bộ ước tính thương mại dịch vụ hai chiều của Việt Nam năm 2000 đạt 3,2 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt 2,0 tỷ USD và nhập khẩu đạt 1,2 tỷ USD.

Các ngành dịch vụ thu ngoại tệ bao gồm nhiều lĩnh vực (theo WTO thì có tới 155 loại hình), bản này mới chỉ có thể đề cập tới các loại hình dịch vụ như du lịch, xuất khẩu lao động, vận tải hàng không, bưu chính viễn thông và dịch vụ ngân hàng.

2.1. Xuất khẩu lao động:

Trong nhiều năm qua xuất khẩu lao động là ngành thu ngoại tệ quan trọng. Bình quân giai đoạn 1996-2000, mỗi năm nước ta đưa ra nước ngoài khoảng 2 vạn lao động với thời hạn hợp đồng từ 3-5 năm, riêng năm 2000 dự kiến là 3 vạn lao động. Hiện nay số người Việt Nam đang lao động tại nước ngoài vào khoảng 9 vạn người. Với thu nhập bình quân đầu người khoảng 5.000USD/năm, ước tính kim ngạch xuất khẩu lao động năm 2000 sẽ đạt 450 triệu USD.

Theo Bộ Lao động Thương binh và Xã hội thì mục tiêu phấn đấu năm 2005 là xuất khẩu 150-200 ngàn lao động và đến năm 2010 là 1 triệu lao động. Nếu thực hiện được mục tiêu này, kim ngạch dự kiến sẽ đạt khoảng 1,5 tỷ USD vào năm 2005 và 4,5-6 tỷ USD vào năm 2010.

2.2. Du lịch:

Du lịch là một ngành dịch vụ có ý nghĩa kinh tế xã hội quan trọng. Trong những năm qua, ngành du lịch đã đạt được nhiều bước tiến đáng ghi nhận. Tuy nhiên tiềm năng của ngành còn rất lớn nếu biết khai thác và phát huy tốt những thế mạnh sẵn có. Theo Tổng cục Du lịch, dự kiến năm 2000 sẽ có khoảng 2 triệu khách du lịch quốc tế tới Việt Nam với doanh thu ngoại tệ khoảng 500 triệu USD.

Theo chiếu lược phát triển của ngành thì tới năm 2005 sẽ phấn đấu thu hút được 3 triệu khách quốc tế với doanh thu xấp xỉ 1 tỷ USD, năm 2010 thu hút 4,5 triệu khách đạt 1,6 tỷ USD.

2.3. Vận tải biển và dịch vụ cảng, giao nhận:

Kim ngạch xuất khẩu trong lĩnh vực vận tải biển năm 2000 mới chỉ đạt xấp xỉ 20 triệu USD. Hiện nay đa số các doanh nghiệp của ta lựa chọn điều kiện giao hàng là CIF hoặc C&F đối với hàng nhập khẩu và FOB đối với hàng xuất khẩu. Do vậy hàng năm ta phải chi một lượng ngoại tệ khá lớn để nhập khẩu dịch vụ vận tải của nước ngoài, đồng thời lại để tuột mất cơ hội thu ngoại tệ khi xuất khẩu. Nguyên nhân khách quan một phần là do tập quán của doanh nghiệp khi ký kết hợp đồng, nhưng nguyên nhân chính vẫn là nước ta chưa có một đội tàu đủ mạnh, hoạt động rộng trên nhiều tuyến và cước phí chưa cạnh tranh. Vì vậy trong thời gian tới cần tăng cường đầu tư phát triển hệ thống cảng biển, đi đôi với việc gia tăng đội tàu, tận dụng thế mạnh về vị trí địa lý, hạ giá thành vận chuyển để nâng cao kim ngạch xuất khẩu, giảm kim ngạch nhập khẩu tiết kiệm ngoại tệ cho đất nước. Nếu cước phí vận tải chỉ chiếm 1% trong tổng kim ngạch hàng hóa Việt Nam xuất khẩu và ngành dịch vụ vận tải nước ta đảm đương được thì kim ngạch xuất khẩu của ngành vận tải biển đã là trên dưới 250 triệu USD năm 2005 và 500 triệu USD năm 2010.

2.4. Các ngành dịch vụ khác (ngân hàng, vận tải hàng không, bưu chính viễn thông, xây dựng, y tế, giáo dục…):

Hiện nay, do các Bộ, ngành còn đang thu thập số liệu về xuất – nhập khẩu dịch vụ liên quan tới ngành mình nên Bộ Thương mại chưa tổng hợp được số liệu chính xác. Tuy nhiên, có thể sơ bộ ước tính kim ngạch xuất khẩu của nhóm này sẽ đạt xấp xỉ 1 tỷ USD năm 2000 trong đó chiếm tỷ trọng lớn là dịch vụ ngân hàng (thanh toán quốc tế, chuyển tiền, kiều hối), bưu chính viễn thông và vận tải hàng không. Dự kiến kim ngạch của nhóm này sẽ tăng khoảng 10%/năm thời kỳ 2001-2010, đạt 1,6 tỷ USD năm 2005 và 2,6 tỷ USD năm 2010.

Có thể hình dung, ngành dịch vụ phát triển nhiều nhất vào thời kỳ 2001-2010 sẽ là xuất khẩu lao động, du lịch, bưu chính viễn thông, vận tải và ngân hàng. Định hướng phát triển các ngành cụ thể được tóm tắt qua bảng dưới đây:

Ngành dịch vụ

Kim ngạch 2005 (triệu USD)

Kim ngạch 2010 (triệu USD)

– Xuất khẩu lao động

1.500

4.500

– Du lịch

1.000

1.600

– Một số ngành khác (ngân hàng, bưu chính viễn thông, vận tải…)

1.600

2.000-2.500

Tổng kim ngạch XKDV

4.100

8.100-8.600

Tóm lại, tới năm 2010, kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu được dự kiến như sau:

Nhóm hàng

Kim ngạch 2010 (triệu USD)

Tỷ trọng %

2000

2010

1. Nguyên nhiên liệu

1.750

20,1

3-3,5

2. Nông sản, hải sản

8.000-8.600

23,4

16-17

3. Chế biến, chế tạo

20.000-21.000

31,4

40-45

4. Công nghệ cao

7.000

5,4

12-14

5. Hàng khác

12.500

19,8

23-25

Tổng kim ngạch hàng hóa

48.000-50.000

100

Tổng kim ngạch dịch vụ

8.100-8.600

3. Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu:

Đối với hàng nhập khẩu thì phương châm chung là:

– Ưu tiên nhập khẩu vật tư, thiết bị và công nghệ tiên tiến phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, năng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu.

– Cố gắng sử dụng vật tư, thiết bị mà trong nước có thể sản xuất được để tiết kiệm ngoại tệ, nâng cao trình độ sản xuất.

– Hạn chế tới mức tối đa có thể được việc nhập khẩu hàng tiêu dùng.

– Tập trung vào nhập thiết bị hiện đại từ các nước có công nghệ nguồn (Mỹ, Nhật, Tây Âu); giảm nhanh tiến tới hạn chế nhập thiết bị công nghệ lạc hậu hoặc công nghệ trung gian.

Nhu cầu nhập khẩu tăng năm 2010 dự kiến như sau:

Nhóm hàng

Kim ngạch 2010 (triệu USD)

Tỷ trọng (%)

2000

2010

1. Máy móc thiết bị

18.000

27

36

2. Nguyên nhiên vật liệu

30.000

69

60

3. Hàng tiêu dùng

2.000

4

4

Tổng kim ngạch NK

50.000

100

100

Cơ cấu nhập khẩu sẽ chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng máy, thiết bị công nghiệp và công nghệ từ 27% năm 2000 lên 36% 2010, giảm tỷ trọng nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu từ 69% năm 2000 xuống 60% năm 2010, giữ nguyên tỷ trọng hàng tiêu dùng ở mức 4% như hiện nay. Khả năng này có tính hiện thực vì trong những năm tới ta sẽ giảm nhập khẩu xăng dầu, một số đồ dùng lâu bền, phân bón và các loại vật liệu xây dựng…, hàng tiêu dùng nhập khẩu đang được thay thế dần bằng hàng sản xuất trong nước, nhất là vào những năm cuối thời kỳ 2001-2010.

Nước ta còn đang trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, trình độ phát triển kinh tế còn thấp, do đó chưa thể xóa bỏ được tình trạng nhập siêu. Mức nhập siêu cao hay thấp còn tùy thuộc kết quả thực hiện các chính sách đẩy mạnh xuất khẩu và sử dụng hợp lý các nguồn vốn nhập khẩu. Đồng thời, cần tính tới nhân tố khi mở cửa thị trường theo cam kết quốc tế, hàng rào quan thuế và phi quan thuế sẽ giảm dần do đó hàng nước ngoài sẽ dễ xâm nhập thị trường nước ta hơn. Do đó ta cần ra sức nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nội địa, chủ động đi vào thị trường nước khác, đổi mới cơ bản phương thức quản lý nhập khẩu. Phương án khả thi là kiềm chế nhập khẩu, giảm dần tỷ lệ nhập siêu, khống chế nhập siêu hàng năm ở mức không quá 10% kim ngạch xuất khẩu, tiến tới cân bằng xuất nhập và xuất siêu vào cuối thời kỳ của chiến lược 2001-2010.

Về thị trường nhập khẩu cần chuyển dịch theo hướng giảm thiểu tỷ trọng của thị trường ASEAN nói riêng, Châu Á nói chung xuống còn khoảng 55% (hiện nay ASEAN đang chiếm tới 30% kim ngạch xuất khẩu của ta, riêng Singapore là 17-18%, toàn Châu Á chiếm xấp xỉ 80%). Tỷ trọng của các thị trường cung ứng công nghệ nguồn như Nhật, EU, Bắc Mỹ hiện rất thấp (Nhật khoảng 12%, EU khoảng 10%, Bắc Mỹ chưa đầy 4%), do đó cần nâng dần tỷ trọng của Nhật, EU và Bắc Mỹ lên trên 30% vào năm 2005 và 40% vào năm 2010.

Cần chủ động thay đổi về căn bản phương thức quản lý nhập khẩu theo hướng tăng cường sử dụng các công cụ phi thuế “hợp lệ” như các hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, môi trường…, hạn ngạch thuế quan, thuế tuyệt đối, thuế mùa vụ, thuế chống phá giá, chống trợ cấp, công bố lộ trình rõ ràng cho việc dỡ bỏ hàng rào bảo hộ, khắc phục triệt để những bất hợp lý trong chính sách bảo hộ, cân đối lại đối tượng bảo hộ theo hướng trước hết chú trọng bảo hộ nông sản. Giảm dần tỷ trọng của thuế nhập khẩu trong cơ cấu nguồn thu ngân sách. Cải cách biểu thuế và cải cách công tác thu thuế để giảm dần, tiến tới xóa bỏ chế độ tính thuế theo giá tối thiểu và tích cực xúc tiến việc xếp sắp lại các doanh nghiệp, đổi mới công nghệ, phương thức quản lý để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của từng ngành hàng.

4. Cơ cấu dịch vụ nhập khẩu

Các ngành dịch vụ mà ta phải chi trả ngoại tệ chủ yếu là dịch vụ tài chính (bảo hiểm, kiểm toán…), ngân hàng (thanh toán, chuyển tiền…), bưu chính viễn thông, vận tải (hàng không, đường thủy), thuê chuyên gia nước ngoài, du lịch, du học…. Tổng giá trị nhập khẩu dịch vụ năm 2000 ước tính vào khoảng 1,2 tỷ USD. Dự kiến nhập khẩu dịch vụ tăng khoảng 10,5% trong thời kỳ 2001-2010, đạt giá trị 2,02 tỷ USD năm 2005 và 3,4 tỷ USD năm 2010.

Tuy nhiên, trong việc hoạch định chiến lược xuất nhập khẩu dịch vụ thời kỳ 2001-2010 cần tính tới yếu tố hội nhập quốc tế trong đó có hội nhập về dịch vụ. Nếu Việt Nam gia nhập WTO trong giai đoạn này thì lĩnh vực dịch vụ cũng sẽ phải từng bước mở cửa theo những nguyên tắc của Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS), tạo điều kiện cho các nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài mở rộng hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Điều này chắc chắn đặt các ngành dịch vụ của nước ta trước sự cạnh tranh gay gắt và sẽ ảnh hưởng mạnh tới kim ngạch nhập khẩu dịch vụ của ta.

C. VỀ THỊ TRƯỜNG XUẤT – NHẬP KHẨU

Một trong những khâu then chốt của Chiến lược phát triển xuất – nhập khẩu đến năm 2010 là mở rộng và đa dạng hoá thị trường. Quan điểm chủ đạo là:

– Tích cực, chủ động tranh thủ mở rộng thị trường, nhất là sau khi tham gia WTO;

– Đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ với các đối tác, phòng ngừa chấn động đột ngột;

– Mở rộng tối đa về diện song trọng điểm là các thị trường có sức mua lớn, tiếp cận các thị trường cung ứng công nghệ nguồn;

– Tìm kiếm các thị trường mới ở Mỹ La-tinh, Châu Phi.

Xuất phát từ các phương châm chung nói trên, có thể tính đến vị trí của các thị trường như sau:

1. Khu vực Châu Á– Thái Bình Dương:

Tiếp tục coi trọng khu vực vày trong 10 năm tới vì ở gần ta, có dung lượng lớn, phát triển tương đối năng động. Thị trường trọng điểm tại khu vực này sẽ là các nước ASEAN, Trung Quốc (cả Hồng Công), Nhật Bản, Đài Loan và Hàn quốc.

ASEAN là một thị trường khá lớn, với khoảng 500 triệu dân, ở sát nước ta và ta là một thành viên, tuy trước mắt gặp khó khăn tạm thời song tiềm năng phát triển còn lớn, lâu nay chiếm khoảng trên dưới 1/3 kim ngạch buôn bán của nước ta, sắp tới, khi AFTA hình thành ta càng có thêm điều kiện xuất khẩu và thị trường này. Mặt khác, ASEAN có nhiều mặt hàng giống ta, đều hướng ra các thị trường khác là chính chứ chưa phải là buônbán trong khu vực là chính, trong những năm tới, khả năng xuất gạo, dầu thô cho khu vực này sẽ giảm, trong khi đó với việc áp dụng biểu thuế AFTA, hàng của ASEAN có điều kiện thuận lợi hơn trong việc đi vào thị trường ta, do đó càng phải ra sức phấn đấu gia tăng khả năng cạnh tranh để đi vào thị trường ASEAN, cải thiện cán cân thương mại.

Các doanh nghiệp của ta cần tích cực, chủ động tận dụng thuận lợi do cơ chế AFTA mở ra để gia tăng xuất khẩu sang các thị trường này từ đó tăng kim ngạch nhưng giảm về tỷ trọng, hạn chế nhập siêu. Ngoài ra, cần khai thác tốt thị trường Lào và Campuchia.

Mặt hàng trọng tâm cần được đẩy mạnh xuất khẩu sẽ là gạo, linh kiện vi tính, một vài sản phẩm cơ khí (đối với các nước ngoài Đông Dương) và hoá phẩm tiêu dùng, thực phẩm chế biến, sản phẩm nhựa, hàng bách hoá (đối với Lào và Campuchia). Về nhập khẩu, mặt hàng chủ yếu từ thị trường này sẽ là nguyên liệu sản xuất dầu thực vật, phân bón, linh kiện vi tính – cơ khí – điện tử, xăng dầu, sắt thép, tân dược và một số chủng loại máy móc, thiết bị, phụ tùng.

Trung Quốc là một thị trường lớn, lại ở sát nước ta đồng thời lại là một nước có khả năng cạnh tranh cao không những trên thị trường thế giới mà còn ngay trên thị trường nước ta. Với ý nghĩa đó ta cần tích cực, chủ động hơn trong việc thúc đẩy buôn bán với Trung Quốc mà hướng chính là các tỉnh Hoa Nam và Tây Nam Trung Quốc, phấn đấu đưa kim ngạch lên khoảng 3-4 tỷ USD. Một trong những phương cách là tranh thủ thoả thuận ở cấp Chính phủ về trao đổi một số mặt hàng với số lượng lớn, trên cơ sở ổn định, thúc đẩy buôn bán chính ngạch. Bên cạnh đó cần coi trọng buôn bán biên mậu, tận dụng phươngthức này để gia tăng xuất khẩu trên cơ sở hình thành sự điều hành tập trung và nhịp nhàng. Đồng thời, cần chú trọng thị trường Hồng Công- một thị trường tiêu thụ lớn và vốn là một khâu trung chuyển quan trọng nhưng gần đây có xu hướng thuyên giảm trong buôn bán với ta.

Mặt hàng chủ yếu đi vào hai thị trường này sẽ là hải sản, cao su, rau hoa quả, thực phẩm chế biến và hoá phẩm tiêu dùng. Hàng nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc sẽ là hoá chất, thuốc trừ sâu, một số chủng loại phân bón, chất dẻo nguyên liệu, bông, sắt thép, máy móc, thiết bị và phụ tùng.

Tỷ trọng xuất khẩu vào Nhật Bản phải được cải thiện. Ta và Nhật cần có sự trao đổi, bàn bạc để đi đến ký kết thoả thuận về việc Nhật Bản dành cho hàng hoá của VIệt Nam qui chế MFN đầy đủ. Các doanh nghiệp cần tăng cường tìm hiểu các thông tin có liên quan đến phương thức phân phối, thủ tục xin dấu chứng nhận chất lượng JIS, JAS và Ecomark cũng như chế độ xác nhận trước về thực phẩm nhập khẩu của Nhật. Đây là việc hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với đẩy mạnh xuất khẩu nông sản và thực phẩm, mặt hàng mà ta có thế mạnh. Ngoài ra, cần hết sức quan tâm đến thu hút vốn đầu tư từ Nhật Bản.

Trong những năm tới mặt hàng chủ lực xuất khẩu sang Nhật Bản sẽ là: hải sản, hàng dệt may, giày dép và sản phẩm da, than đá cao su, cà phê, rau quả, thực phẩm chế biến, chè, đồ gốm sứ và sản phẩm gỗ. Mặt hàng chủ yếu nhập khẩu sẽ là máy móc, thiết bị công nghệ cao, chất dẻo nguyên liệu, linh kiện điện tử tin học cơ khí, thuốc trừ sâu và nguyên liệu, sắt thép, nguyên phụ liệu dệt- may – da.

Hàn Quốc là thị trường nhập khẩu lớn trong khu vực. Tuy nhiên,ta vẫn nhập siêu lớn, hàng xuất của ta vẫn chưa có chỗ đứng vững chắc trên thị trường này. Trong thời gian tới,để đẩy mạnh xuất khẩu sang Hàn Quốc, cần kiên trì thuyết phục bạn mở cửa thị trường. Cần chú trọng tới một nhân tố mới là Nam – Bắc Triều Tiên cải thiện quan hệ, Hàn Quốc sẽ quan tâm nhiều hơn tới Bắc Triều Tiênnhưng mặt khác tình hình Bắc Triều Tiên được cải thiện cũng mở ra khả năng gia tăng buôn bán với Bắc Triều Tiên mà cho tới nay hầu như không có.

Mục tiêu đặt ra là duy trì và đẩy mạnh kinh ngạch xuất khẩu dệt may,hải sản, giày dép, cà phê, rau quả, than đá, dược liệu, cố len vào thị trường nông sản. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ thị trường này có thể là máy móc, thiết bị, phụ tùng, phương tiện vận tải, chất dẻo nguyên liệu, linh kiện điện tử – tin học – cơ khí, phân bón, sắt thép, tân dược và nguyên phụ liệu dệt – may – da.

Đài Loan là bạn hàng xuất khẩu quan trọng. Quan hệ thương mại trong những năm tới có thể thêm một số thuận lợi. Mục tiêu chủ yếu trong thời gian tới là đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng như sản phẩm gỗ, hải sản,cao su, dệt may, giày dép, rau quả và chè. Sau năm 2000 có thể có thêm các sản phẩm như cơ khí và điện gia dụng do cơ sở có vốn đầu tư của Đài Loan sản xuất tại Việt Nam có thể tăng phù hợp với xu thế dịch chuyển sản xuất như đã nêu ở trên. Hàng nhập từ Đài Loan có thể là linh kiện điện tử – vi tính – cơ khí, máy móc, thiết bị, phụ tùng, nguyên phụ liệu dệt may – da, sắt thép.

2. Khu vực Châu Âu

Chiến lược thâm nhập và mở rộng thị phần tại Châu Âu được xác định trên cơ sở chia Châu Âu thành 2 khu vực cơ bản: Tây Âu và Đông Âu.

Tại Tây Âu, trọng tâm sẽ là EU mà chủ yếu là các thị trường lớn như Đức, Anh, Pháp và Italia. Kim ngạch xuất khẩu sang EU tăng rất nhanh trong thời kỳ 1991 – 1999. Trong các quốc gia EU, Đức là bạn hàng quan trọng thứ 4 của Việt Nam, Anh là nước thứ 9, pháp và Hà Lan đứng thứ 12 và 13. Hàng hoá xuất sang EU chủ yếu là giầy dép, dệt may, cà phê, hải sản, cao su, than đá, điều nhân và rau quả. Để phát triển hơn nữa xuất khẩu sang EU, đòi hỏi cao về chất lượng và luật lệ phức tạp ở EU, cần tăng cường thu thập và phổ biến thông tin cho các doanh nghiệp; chú trọng nâng cao chất lượng hàng hoá,nhất là hải sản và thực phẩm chế biến; tranh thủ việc EU coi Việt Nam là “nước có nền kinh tế thị trường” để bảo đảm cho hàng hóa Việt Nam được đối xử bình đẳng với hàng hoá các nước khác khi EU điều tra và thi hành các biện pháp chống bán phá giá; tranh thủ EU nâng mức chuyển hạn ngạch giữa các nước ASEAN, chuẩn bị điều kiện gia tăng cạnh tranh trong việc thâm nhập thị trường này sau khi bỏ hạn ngạch vào năm 2005.

Nhìn chung, nhiều mặt hàng có thể tăng xuất khẩu vào EU nhưng trọng tâm vẫn sẽ là dệt may, giày dép, hải sản, rau hoa quả, cao su, sản phẩm nhựa, sản phẩm gỗ, và sản phẩm cơ khí. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ thị trường này sẽ là máy móc, thiết bị công nghệ cao, máy chế biến thực phẩm, phương tiện vận tải, máy bay, hoá chất, tân dược, nguyên phụ liệu dệt – may- da.

Quan hệ thương mại với các nước Đông Âu và SNG, nhất là liên bang Nga có thể và cần được khôi phục bởi đây là thị trường có nhiều tiềm năng. Ta cần thay đổi nhận thức về việc họ “dễ tính”,người tiêu dùng ở đây đã được tiếp cận với hàng hoá nhiều nước có chấtlượng cao hơn hàng hoá của ta; nhiều nước, trong đó có Trung Quốc, xâm nhập mạnh mẽ vào khu vực này, đồng thời các nước này đều có khó khăn về khả năng thanh toán.

Toàn bộ tình hình đòi hỏi ta phải coi họ như những thị trường nhiều tiềm năng nhưng cũng yêu cầu hàng hoá có sức cạnh tranh cao,đều vận hành theo cơ chế thị trường với một số đặc thù của giai đoạn chuyển đổi. Theo hướng đó, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp thâm nhập thị trường này. Quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu cần được ra đời sớm để bảo lãnh tín dụng xuất khẩu cho người xuất khẩu hàng hoá vào Nga và Đông Âu theo phương thức “Nhà nước doanh nghiệp cùng làm”, xây dựng một số trung tâm tiêu thụ hàng hoá, hỗ trợ tận dụng cộng đồng người Việt để đưa hàng vào Nga và Đông Âu, tạo một số cơ sở sản xuất tại chỗ…

Trọng tâm về hàng hoá xuất khẩu sẽ là cao su, chè, thực phẩm chế biến, rau quả, hoá phẩm tiêu dùng, dệt may, giày dép và thủ công mỹ nghệ. Hàng nhập khẩu chủ yếu sẽ là thiết bị năng lượng, thiết bị mỏ, hàng quốc phòng, phân bón, sắt thép, phương tiện vận tải, lúa mỳ và tân dược.

3. Khu vực Bắc Mỹ:

Trọng tâm tại khu vực này là thị trường Hoa Kỳ. Đây là nước nhập khẩu lớn hàng đầu thế giới (mỗi năm nhập khẩu tới trên 1000 tỷ USD hàng hoá) với nhu cầu rất đa dạng, nắm những đỉnh cao về khoa học – công nghệ, công nghệ nguồn. Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ được ký kết và phê chuẩn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá của ta, đồng thời thúc đẩy các nước đầu tư vào VIệt Nam để xuất sang Hoa Kỳ.

Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu vào Hoa Kỳ sẽ là dệt may, giày dép, sản phẩm nhựa, sản phẩm cơ khí – điện, sản phẩm gỗ, thủ công mỹ nghệ, hải sản, cà phê, hạt tiêu, nhân điều, chè, gia vị, rau quả và thực phẩm chế biến. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là máy móc, thiết bị công nghệ cao, phần mềm, máy bay, phương tiện vận tải, hoá chất, tân dược, sản phẩm cao su, chất dẻo nguyên liệu, lúa mỳ và nguyên liệu sản xuất thức ăn gia súc.

Các ngành hàng trên, nhất là chế biến gỗ, chế biến thực phẩm, sản xuất đồ nhựa cần bắt tay ngay vào việc nghiên cứu thị trường HoaKỳ để thâm nhập và đẩy mạnh xuất khẩu. Riêng một số ngành như dệt may, giày dép, chế biến hải sản đã dành sự quan tâm khá thích đáng trong việcnghiên cứu thị trường Mỹ từ trước khi ký kết Hiệp định nên hầu như đã ở thế sẵn sàng để xuất phát.

4. Châu Đại dương:

Trọng tâm tại khu vực châu Đại dương là Australia và Newzealand. Quan hệ thương mại với hai thị trường này phát triển tốt trong những năm gần đây chứng tỏ tiềm năng không nhỏ nhưng mức khai thác vẫn còn thấp. Do đó, cần kiên trì tìm kiếm, tạo lập và củng cố quan hệ bạn hàng. Hàng hoá đi vào khu vực này chủ yếu sẽ là dầu thô, dệt may, giày dép thủ công mỹ nghệ, sản phẩm nhựa, sản phẩm gỗ và sản phẩm cơ khí điện. Hàng nhập khẩu chủ yếu sẽ là máy móc, thiết bị, sắt thép, lúa mỳ, bột mỳ, sữa nguyên liệu và tân dược.

5. Trung Cận Đông, Nam Á, Châu Phi và Mỹ La-tinh:

Hàng hoá của Việt Nam hiện đã xuất hiện trên các thị trường này nhưng chủ yếu là qua thương nhân nước thứ ba; kim ngạch do ta xuất trực tiếp còn khá nhỏ bé. Một điểm cần lưu ý là toàn bộ các nước trong khu vực, kể cả những nước đã từng phát triển theo đường lối kế hoạch hóa tập trung, đều đã áp dụng cơ chế thị trường và hiện đang có sự gắn kết với nhau thông qua việc hình thành các liên kết kinh tế khu vực như khối liên minh quan thuế Nam Châu Phi, khối các nước sử dụng đồng Franc ở Tây Phi, khối Maghreb tại Bắc Phi, khối các nước vùng Vịnh, Hiệp hội SAFTA… Thương mại giữa các nước trong khối được áp dụng những ưu đãi đặc biệt. Vì lý do đó, trong chiến lược thâm nhập thị trường, cần chọn thị trường trọng điểm cho từng khối và lấy đó làm bàn đạp để tiến vào các nước trong khối.

Tóm lại, trong thời gian tới, bên cạnh việc tiếp tục củng cố và tăng cường chỗ đứng tại các thị trường đã có thì khâu đột phá có thể là gia tăng sự có mặt tại thị trường Trung Quốc, Nga, mở ra thị trường Mỹ, châu Phi và trong chừng mực nào đó là thị trường Mỹ La-tinh.

PHẦN THỨ BA
HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH VÀ BIỆN PHÁP HỖ TRỢ ĐỂ
THỰC HIỆN ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN
XUẤT – NHẬP KHẨU THỜI KỲ 2001-2010

Để đạt các mục tiêu và chỉ tiêu nêu trên cần thực hiện đồng bộ hệ thống các chính sách, biện pháp, trong đó có thể có hai khâu then chốt:

Một là, có chính sách đầu tư thỏa đáng không chỉ nhằm gia tăng sản lượng mà cần chú trọng nâng cao năng suất, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm (và cả dịch vụ) xuất khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và hàng hóa – dịch vụ Việt Nam.

Hai là, trên cơ sở kiên trì chính sách mở cửa, chủ động hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, mở rộng và đa dạng hóa thị trường.

Từ nhận thức như vậy, Bộ Thương mại đề xuất các chính sách và biện pháp phát triển xuất – nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ như sau:

I. CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ VÀ CHUYỂN ĐỔI CƠ CẤU
HÀNG HÓA – DỊCH VỤ:

1. Về hàng hóa:

Để đạt được những mục tiêu đề ra trong phần chính sách hàng hóa, một khâu có ý nghĩa quyết định là chính sách đầu tư. Phù hợp với đòi hỏi của tình hình, chính sách đầu tư nên được thực hiện theo các hướng sau:

1.1. Cần dành ưu tiên cao cho các ngành sản xuất hàng xuất khẩu, còn đối với các ngành thay thế nhập khẩu mà năng lực sản xuất trong nước đã đáp ứng nhu cầu thì không nên tăng thêm đầu tư, kể cả đầu tư nước ngoài.Trong đầu tư nên tập trung vào các ngành hàng chủ lực và các dự án nâng cao cấp độ chế biến, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa. Theo hướng đó, đối với các dự án đầu tư chỉ nhằm mở rộng quy mô (có nghĩa là chỉ dẫn đến thay đổi về lượng mà không dẫn đến thay đổi về chất) thì ưu đãi ít; đối với các dự án đổi mới công nghệ, nâng cao được cấp độ chế biến hàng hóa thì, tùy theo mức độ, được ưu đãi nhiều hơn. Có chính sách ưu đãi, đặc biệt là về thuế, để thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng ngày càng nhiều sản phẩm trong nước, nâng cao hàm lượng nội địa của sản phẩm.

Nên tính tới việc thành lập Ngân hàng Dữ liệu Công nghệ Quốc gia để cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp; tạo lập thị trường công nghệ để các sản phẩm khoa học – công nghệ được trả giá đúng mức và lưu thông bình thường như một dạng hàng hóa đặc biệt; khuyến khích việc ký hợp đồng giữa các doanh nghiệp với các cơ sở nghiên cứu khoa học; thi hành nghiêm túc các quy định của luật pháp về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; áp dụng chế độ đăng ký và kiểm tra chất lượng bắt buộc đối với một số mặt hàng xuất khẩu để thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm hơn nữa đến vấn đề công nghệ, đặc biệt là công nghệ sạch.

1.2. Đối với nông sản, chú trọng việc đầu tư đổi mới giống cây trồng, công nghệ từ đó nâng cao chất lượng, hiêu quả và sức cạnh tranh, phù hợp với nhu cầu trên thị trường đi đôi với việc chú trọng đầu tư vào khâu sau thu hoạch mà hiện nay còn rất hạn chế (Bộ Nông nghiệp và PTNT đã trình Chính phủ đề án về mặt này).

1.3. Nhà nước đặc biệt quan tâm đầu tư trực tiếp cho hoạt động xuất khẩu như các cảng, kho tàng, kể cả kho ngoại quan, các trung tâm thương mại ở nước ngoài, các hoạt động xúc tiến thương mại (tham gia triển lãm, hội chợ, cử đoàn đi nước ngoài tìm hiểu thị trường, tìm kiếm đối tác, thu thập và cung cấp thông tin, hướng dẫn cho các doanh nghiệp về luật lệ, tiêu chuẩn, mẫu mã thị trường đòi hỏi…); đặc biệt cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có khả năng về tài chính, nhân lực và thông tin; chú trọng đầu tư đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là cán bộ quản lý.

1.4. Do FDI góp phần đáng kể cho xuất khẩu nên cần hết sức chú trọng cải thiện môi trường đầu tư một cách đồng bộ để tăng sức hấp dẫn đối với cả đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp của nước ngoài, nhất là trong lĩnh vực sản xuất để xuất khẩu. Tích cực, chủ động điều chỉnh Luật Đầu tư nước ngoài theo quy định của WTO về TRIMS, giảm dần, tiến tới xóa bỏ sự phân biệt về chính sách giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Duy trìmôi trường đầu tư ổn định để tạo tâm lý tin tưởng cho các nhà đầu tư. Phát triển hợp lý các khu chế xuất, khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài gia tăng xuất khẩu. Mở rộng thị trường để lôi kéo các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư ở nước ta, xuất sang các thị trường có dung lượng lớn.

1.5. Nguồn đầu tưnên được xác định là: Nhà nước tập trung cho những khâu đòi hỏi vốn lớn, có tác dụng cho nhiều doanh nghiệp như nghiên cứu khoa học, xây dựng hạ tầng, kho bãi, bến cảng, thành lập các trung tâm thương mại và kho ngoại quan ở nước ngoài… Trong các khâu còn lại, Nhà nước chỉ ban hành các chính sách ưu đãi để khuyến khích cá nhân và doanh nghiệp chủ động đầu tư sản xuất, kinh doanh, hạn chế tới mức thấp nhất, nhanh chóng tiến tới xóa bỏ hoàn toàn cơ chế “xin – cho”, bao cấp trực tiếp hoặc gián tiếp.

2. Về dịch vụ:

Để đạt mục tiêu tăng trưởng bình quân 15% trong thời kỳ 2001-2010, đưa kim ngạch xuất khẩu dịch vụ lên 8,1 tỷ USD vào năm 2010 và đồng thời xuất siêu 4,7 tỷ USD về dịch vụ, cầu tập trung mọi nguồn lực nâng cao sức cạnh tranh của mọi ngành dịch vụ, tận dụng cơ hội cũng như đối phó với những thách thức do hội nhập quốc tế đem lại. Do tính chất đa ngành trong lĩnh vực dịch vụ nên mỗi ngành đều cần có hệ thống chính sách, giải pháp riêng để thực hiện mục tiêu của mình. Nhìn chung, các giải pháp lớn để phát triển xuất khẩu dịch vụ có thể là:

2.1. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng:

Sức cạnh tranh của nhiều ngành dịch vụ như bưu chính viễn thông, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch… phụ thuộc nhiều vào điều kiện cơ sở hạ tầng và trình độ công nghệ. Vì vậy cần tiếp tục có chính sách tự mình hoặc thu hút đầu tư nước ngoài phát triển cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật như đường xá, hệ thống sân bay, cảng biển, công nghệ viễn thông, hệ thống khách sạn và khu du lịch… đủ tiêu chuẩn quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế nói chung và dịch vụ nói riêng.

2.2. Chuyên nghiệp hóa, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của dịch vụ:

Dịch vụ ngày càng phát triển nhanh chóng cả chiều rộng lẫn chiều sâu và rất đa dạng. Bên cạnh đó, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những thách thức mới, môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn do sự xuất hiện của nhiều nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài; các hình thức bảo hộ đối với nhiều ngành dịch vụ sẽ phải giảm dần theo các nguyên tắc mở cửa thị trường và đối xử quốc gia (NT) của Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS). Vì vậy, mỗi ngành dịch vụ đều phải phấn đấu chuyên nghiệp hoá phương thức kinh doanh, nâng cao chất lượng dịch vụ theo tiêu chuẩn quốc tế để có thể phát triển trong quá trình hội nhập.

2.3. Mở rộng các loại hình dịch vụ xuất khẩu, phương thức xuất khẩu và thị trường xuất khẩu:

Ngoài việc phát triển các loại hình xuất khẩu dịch vụ hiện có, trong thời gian tới cần chú trọng thêm những ngành còn nhiều triềm năng như y tế, giáo dục, xây dựng, kiểm toán, bảo hiểm… Trong lĩnh vực vận tải và giao nhận cần tận dụng thế mạnh về vị trí địa lý của nước ta nằm ở ngã ba đường vận tải quốc tế để phát triển các dịch vụ tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu, chuyển tải, quá cảnh…. Ngoài ra, cần đa dạng hoá các phương thức kinh doanh và mở rộng thị trường xuất khẩu để tạo điều kiện nâng cao giá trị xuất khẩu. Đồng thời, chuẩn bị kỹ lưỡng phương án cam kết về dịch vụ, nhất là trong khuôn khổ đàm pháp gia nhập WTO để trên cơ sở đó hoạch định và từng bước hoàn thiện môi trường pháp lý, cơ chế chính sách trong lĩnh vực dịch vụ.

II. CÁC GIẢI PHÁP VỀ THỊ TRƯỜNG:

Để chủ động thâm nhập thị trường quốc tế, duy trì và mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, khai thác thêm các thị trường mới, bảo đảm cơ cấu thị trường hợp lý theo nguyên tắc đa phương hoá các đối tác, cần đổi mới công tác thị trường ở tầm vĩ mô và vi mô theo các hướng sau:

1. Phát triển mạnh công tác thị trường ở cả tầm vĩ mô và vi mô, khắc phục đồng thời hai biểu hiện “ỷ lại vào Nhà nước” và “phó mặc cho doanh nghiệp”. Đẩy mạnh đàm phán thương mại song phương và đa phương để tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp, cụ thể là đàm phán mở cửa thị trường mới, đàm phán để tiến tới thương mại cân bằng với những thị trường mà ta thường xuyên nhập siêu, đàm phán để thống nhất hoá các tiêu chuẩn vệ sinh, tiêu chuẩn kỹ thuật và đàm phán để nới lỏng các hàng rào phi quan thuế. Công tác thị trường xuất khẩu và thị trường nhập khẩu được gắn kết chặt chẽ với nhau để vừa tăng cường sức mạnh trong đàm phán quốc tế, vừa góp phần chuyển dần nhập khẩu của các doanh nghiệp từ thị trường nhập siêu (châu Á) sang thị trường xuất siêu (Bắc Mỹ và Tây Âu).

2. Tăng cường mạnh mẽ công tác thông tin về các thị trường: từ tình hình chung cho tới các cơ chế chính sách của các nước, dự báo các chiều hướng cung- cầu hàng hoá và dịch vụ…

3. Chú trọng thu hút đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia và của các nhà sản xuất “chìa khoá trao tay” (đặc biệt là trong lĩnh vực điện tử và công nghệ thông tin) đề vừa bảo đảm thị trường xuất khẩu thông qua hệ thống phân phối toàn cầu, vừa góp phần chuẩn bị tiền đề cho thời kỳ sau là thời kỳ đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng chất xám và hàm lượng công nghệ cao.

4. Tăng cường các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trên thị trường ngoài, nhất là đầu tư trong khâu hoàn thiện nông sản, thực phẩm (thí dụ như chế biến và đóng gói chè, mỳ ăn liền…) để tránh các hàng rào thuế và phi thuế do nước nhập khẩu đặt ra. Xoá bỏ thủ tục cấp phép thành lập văn phòng đại diện tại nước ngoài và đơn giản hoá thủ tục mở tài khoản để phục vụ giao dịch trên thị trường ngoài.

5. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, xúc tiến xuất khẩu, tăng cường công tác thu thập và phổ biến thông tin cũng như công tác dự báo để định hướng cho hoạt động sản xuất, xuất khẩu. Nghiên cứu thành lập Quỹ xúc tiến thương mại có sự đóng góp của các doanh nghiệp để tiến hành hỗ trợ doanh nghiệp trong các hoạt động hội chợ, trưng bày, triển lãm… Tăng cường nghiên cứu các chương trình xuất khẩu trọng điểm để đẩy mạnh tiểu thụ nông sản hàng hoá cho dân, từ điều tra, quy hoạch đến tổ chức sản xuất, tổ chức tiêu thụ. Có chế độ khuyến khích thoả đáng (như miễn giảm thuế thu nhập cá nhân, cho phép tính vào chi phí khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp…) đối với các tổ chức và cá nhân, bao gồm cả các cơ quan đại diện ngoại giao, ngoại thương của ta ở nước ngoài tham gia các hoạt động môi giới, trợ giúp tiếp cận và thâm nhập thị trường quốc tế…

6. Đối với những mặt hàng mà ta giữ thị phần lớn trên thị trường quốc tế (như gạo, cà phê, hạt tiêu…), tăng cường áp dụng các biện pháp như thông tin chiến lược, chiến thuật, kiềm chế tốc độ bán ra, tham gia các kế hoạch quốc tế về điều tiết nguồn cung trong điều kiện có thể… để tác động vào thị trường và giá cả theo hướng có lợi cho ta.

7. tầm vĩ mô, các doanh nghiệp có trách nhiệm dựa vào khung pháp lý và các chính sách khuyến khích của Nhà nước để tổ chức tiếp cận và phân tích, khai thác các thông tin; trực tiếp và thường xuyên tiếp xúc với thị trường thế giới thông qua hội thảo khoa học, hội chợ triển lãm; đẩy mạnh tiếp thị để kịp thời nắm bắt xu thế thị trường, bám sát các thay đổi trong sản xuất và kinh doanh; tự mình chủ động lo tìm bạn hàng, thị trường, tựmình lo tổ chức sản xuất và xuất khẩu theo nhu cầu và thị hiếu của thị trường, tránh tư tưởng ỷ lại vào các cơ quan quản lý Nhà nước hoặc trông chờ trợ cấp, trợ giá; đặc biệt chú trọng giữ “chữ tín” trong kinh doanh để duy trì chỗ đứng trên thị trường; phối hợp với nhau trong việc đi tìm và quan hệ với bạn hàng.

III. HOÀN THIỆN MÔI TRƯỜNG PHÁP LÝ VÀ ĐỔI MỚI,
HOÀN THIỆN CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH XUẤT – NHẬP KHẨU:

Để tạo điều kiện cho việc thực hiện thành công những nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian từ này đến năm 2010, cần hoàn thiện môi trường pháp lý, đồng thời tiếp tục đổi mới, bổ xung và hoàn thiện cơ chế chính sách xuất- nhập khẩu cho phù hợp với điều kiện thực tế theo hướng:

1. Rà soát lại hệ thống luật để điều chỉnh các quy định không còn phù hợp hoặc chưa được rõ, trước hết là Luật Thương mại, Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích Đầu tư trong nước. Về Luật Thương mại, cần mở rộng phạm vi điều chỉnh cho phù hợp với các quy định của WTO. Về Luật Đầu tư nước ngoài, cần đưa thêm các quy định để bảo đảm nguyên tắc đối xử quốc gia (National Treatment) trong các lĩnh vực như các biện pháp về đầu tư có liên quan đến thương mại (TRIMS), dịch vụ. Về Luật Khuyến khích Đầu tư trong nước, cần quy định lại rõ hơn về ngành nghề khuyến khích đầu tư để khắc phục tình trạng không rõ ràng giữa “thay thế nhập khẩu” và “định hướng xuất khẩu”. Có lộ trình thống nhất 2 luật đầu tư này thành 1 bộ luật chung về khuyến khích đầu tư.

2. Ban hành các văn bản luật mới để điều chỉnh các quan hệ kinh tế mới phát sinh trên phương diện quốc tế và quốc gia như văn bản pháp luật về Tối huệ quốc (MFN) và Đối xử quốc gia (NT), Luật Cạnh tranh và Chống độc quyền, Luật Chống bán phá giá và Chống trợ cấp, Luật Phòng vệ Khẩn cấp, Luật Chống chuyển giá (transfer pricing) – một chính sách rất quan trọng đối với việc thu hút có hiệu quả nguồn vốn đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia.

Điều chỉnh hoặc ban hành mới các quy định dưới luật để xử lý linh hoạt các mảng kinh doanh đang ngày càng trở nên quan trọng nhưng chưa đủ khung pháp lý như các lĩnh vực dịch vụ, xuất khẩu tại chỗ (bán hàng thu ngoài tệ mạnh, bán hàng miễn thuế, giao hàng xuất khẩu trên lãnh thổ Việt Nam để tiếp tục sản xuất thành sản phẩm xuất khẩu…), buôn bán biên giới và buôn bán duyên hải, kinh doanh tạm nhập tái xuất và chuyển khẩu…Đặc biệt chú trọng khuyền khích đi đôi với việc quản lý các dịch vụ tái xuất, chuyển khẩu và kho ngoại quan để tận dụng ưu thế về vị trí địa lý, tăng thu ngoại tệ.

3. Xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn hàng hoá – dịch vụ xuất khẩu cho phù hợp với đòi hỏi của thị trường, nâng dần sức cạnh tranh.

4. Trong hoạt động kinh doanh xuất- nhập khẩu, kiên trì chính sách nhiều thành phần, trong đó kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo. Hạn chế dần, tiến tới xoá bỏ tình trạng độc quyền, mở rộng đầu mối kinh doanh xuất- nhập khẩu, khuyến khích kinh tế ngoài quốc doanh tham gia xuất – nhập khẩu,hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bảo đảm sự bình đẳng trong việc tiếp cận các nhân tố đầu vào (vốn, tín dụng, đất đai, lao động) cũng như trong việc nhận hỗ trợ đầu tư, kinh doanh từ phía Nhà nước.

5. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực thương mại theo hướng xoá bỏ các thủ tục phiềnn hà, và phấn đấu ổn định môi trường pháp lý để tạo tâm lý tin tưởng cho các doanh nghiệp, khuyến khích họ chấp nhận bỏ vốn đầu tư lâu dài. Phấn đấu làm cho chính sách thuế, đặc biệt là chính sách thuế xuất nhập khẩu có định hướng nhất quán để không gây khó khăn cho doanh nghiệp trong tính toán hiệu quả kinh doanh. Giảm dần, tiến tới ngừng áp dụng các lệnh cấm, lệnh ngừng nhập khẩu tạm thời. Chấm dứt tình trạng thay đổi chính sách có hiệu lực hồi tố và chấm dứt tình trạng hình sự hoá các mối quan hệ dân sự. Tăng cường tính đồng bộ của cơ chế chính sách; áp dụng thí điểm mô hình liên kết 4 bên trong xây dựng các đề án phát triển sản xuất và xuất khẩu (doanh nghiệp liên kết với trường, viện nghiên cứu, các tổ chức tài chính và các cơ quan quản lý nhà nước).

6. Tiếp cận các phương thức kinh doanh mới như buôn bán trên thị trường giao dịch hàng hoá (Commodity Exchange), trong đó có thị trường hàng hoá giao ngay và thị trường kỳ hạn (Future, Forward, Options) để vừa trực tiếp tham gia điều tiết giá quốc tế, vừa tận dụng được tính chất phòng ngừa rủi ro của các thị trường này. Từ nay đến 2010 phấn đấu hình thành thị trường giao ngay và thị trường kỳ hạn tại Việt Nam đối với 1, 2 mặt hàng xuất khẩu quan trọng (có thể lấy gạo hoặc cà phê làm thí điểm). Cần đặc biệt lưu tâm tiếp cận và phát triển thương mại điện tử, trong đó có việc tạo dựng khung pháp lý cho hình thức thương mại đặc thù này.

7. Điều hành lãi suất, tỷ giá hối đoái một cách linh hoạt để vừa bảo đảm sự ổn định kinh tế- xã hội trong nước, vừa có lợi cho xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, tiến tới biến tiền đồng Việt Nam thành chuyển đổi.

IV. VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ:

Về vấn đề này, Ban Cán sự Chính phủ đã có báo cáo riêng trình Bộ Chính trị và Bộ Chính trị sẽ có Nghị quyết riêng, do đó trong bản này chỉ xin nhấn mạnh một số biện pháp sau:

1. Tạo dựng sự nhất trí cao, quyết tâm lớn trong việc hội nhập vào nền kinh tế khu vực và quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa để giành những ưu đãi về thương mại, từ đó mở rộng thị trường, tiêu thụ sản phẩm, thúc đẩy sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao động;

2. Xây dựng một lộ trình hợp lý, phù hợp với điều kiện của ta và với cam kết quốc tế về giảm quan thuế, thuế hoá đi đôi với việc xoá bỏ hàng rào phi quan thuế, áp dụng chế độ đãi ngộ quốc gia, lịch trình bảo hộ… công bố công khai để các ngành có hướng xếp sắp sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh. Điều cấp bách là xây đựng lộ trình tổng thể tham gia AFTA, đi đôi với việc tích cực, chủ động xây dựng lộ trình đàm phán với WTO. Thể theo các lộ trình đó, có chương trình điều chỉnh, sửa đổi, xây dựng các văn bản pháp quy tương ứng;

3. Chủ động thay đổi về căn bản phương thức quản lý nhập khẩu. Tăng cường sử dụng các công cụ phi thuế “hợp lệ” như các hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, môi trường…, hạn ngạch thuế quan, thuế tuyệt đối, thuế mùa vụ, thuế chống phá giá, chống trợ cấp. Giảm dần tỷ trọng của thuế nhập khẩu trong cơ cấu nguồn thu ngân sách. Cải cách biểu thuế và cải cách công tác thu thuế để giảm dần, tiến tới xoá bỏ chế độ tính thuế theo giá tối thiểu.

4. Tích cực xúc tiến việc xếp sắp lại các doanh nghiệp, đổi mới công nghệ, phương thức quản lý để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của từng ngành hàng; công bố lộ trình rõ ràng cho việc rỡ bỏ hàng rào bảo hộ, khắc phục triệt để những bất hợp lý trong chính sách bảo hộ, cân đối lại đối tượng bảo hộ theo hướng trước hết chú trong bảo hộ nông sản.

5. Tận dụng các thể chế ưu đãi dành cho các nước đang phát triển và kém phát triển trong đàm phán song phương và đa phương, cùng các nước ĐPT đấu tranh cho lợi ích của các nước nghèo. Nắm bắt và tận dụng xu thế “khu vực hoá” để bắt tay với từng thị trường (hoặc khu vực thị trường) riêng lẻ, vừa tạo thị trường xuất khẩu ổn định, vừa làm quen dần với hội nhập kinh tế toàn cầu (WTO).

6. Nhà nước tăng cường phổ biến kiến thức cho xã hội về hội nhập các doanh nghiệp chủ động tích cực tìm hiểu để tận dụng những thuận lợi mới do quá trình hội nhập đem lai đồng thời ứng phó thắng lợi với những thách thức nảy sinh.

V. VỀ ĐÀO TẠO CÁN BỘ:

Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới và khu vực (như Nhật Bản, Singapore…) cho thấy công tác đào tạo là một trong những nhân tố quyết định thành công đối với sự phát triển của đất nước. Ngày nay nhân tố này lại càng có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh nền kinh tế tri thức đang hình thành và ảnh hưởng sâu rộng tới tư duy quản lý, tư duy kinh tế và phương thức sản xuất, kinh doanh. Vì vậy để thực hiện thành công những mục tiêu chiến lược đã đề ra, vấn đề tạo dựng được một đội ngũ cán bộ, doanh nhân có năng lực và một đội ngũ công nhân lành nghề tham gia công tác xuất nhập khẩu đóng vai trò hết sức quan trọng.

Có thể nói tư duy kinh doanh, nghiệp vụ và phương thức kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung mới ở trình độ thấp, có khoảng cách khá xa so với trình độ thế giới. Hơn thế nữa, với mục tiêu chiến lược là tăng trưởng xấp xỉ 14% năm thì nhu cầu về công nhân lành nghề (may mặc, lắp ráp điện tử, cơ khí…) sẽ rất lớn. Cứ xuất khẩu 1 tỷ USD hàng may mặc hoặc giày dép thì cần tới 300.000-400.000 công nhân, cứ xuất khẩu 1 triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ thì cần thêm 3000-4000 công nhân… Vì vậy, song song với việc đào tạo một đội ngũ cán bộ, đội ngũ doanh nhân có năng lực phải chú trọng tạo dựng một đội ngũ công nhân đủ về số lượng, thạo về tay nghề để thực hiện chiến lược xuất nhập khẩu.

Nhà nước cần nghiên cứu tổ chức những lớp đào tạo và bồi dưỡng giám đốc để hình thành dần đội ngũ doanh nhân có năng lực, có khả năng xử lý linh hoạt, đồng thời cần có chính sách khuyến khích doanh nhân giỏi, đặc biệt là trong khu vực doanh nghiệp nhà nước. Nếu cần, có thể xem xét lại chế độ tiền lương cho người đứng đầu các doanh nghiệp Nhà nước.

VI. TỔ CHỨC THỰC HIỆN:

Để thực hiện thành công những mục tiêu chiến lược đã đề ra, cần tiến hành các biện pháp sau:

1. Tham khảo bản chiến lược này đã được Chính phủ thông qua, đề nghị các Bộ, ngành và các địa phương sớm hình thành chiến ược phát triển xuất khẩu của ngành và địa phương mình.

2. Tăng cường và làm sáng rõ hơn trách nhiệm và mối quan hệ phối hợp giữa các Bộ và các địa phương trong các khâu quy hoạch, tổ chức sản xuất, tổ chức tiêu thụ. Xem xét khả năng xây dựng một số chương trình xuất khẩu trọng điểm với sự tham gia của các bộ, ngành, địa phương hữu quan với một cơ quan chỉ đạo tập trung. Tăng cường quan hệ hợp tác, phối hợp giữa các Bộ với các tổ chức đại diện doanh nghiệp (như Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các Hiệp hội ngành hàng…).

3. Giao Bộ Thương mại phối hợp với các bộ ngành hữu quan xây dựng đề án cải tiến một cách cơ bản và tăng cường mạnh mẽ công tác thông tin dự báo và thông tin thị trường để giúp các cơ quan nhà nước xây dựng quy hoạch, hình thành chính sách, điều hành, các doanh nghiệp kinh doanh, trong đó có việc hiện đại hóa hệ thống thông tin thương mại trong cả nước.

4. Củng cố hệ thống xúc tiến thương mại (ở cả Trung ương và địa phương), trong đó có việc hình thành và phát triển Cục Xúc tiến Thương mại, cơ quan chịu trách nhiệm xây dựng khung pháp lý và thực hiện sự quản lý nhà nước, điều hòa, phối hợp công tác xúc tiến thương mại trong cả nước. Từng bước hình thành các trung tâm thương mại Việt Nam ở nước ngoài. Ban hành quy chế thưởng cho các cá nhân, doanh nghiệp mở rộng được thị trường, tìm thêm được đối tác. Tạo điều kiện và hỗ trợ cho các doanh nghiẹp đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt trong việc thành lập các trung tâm thương mại, kho ngoại quan… để giới thiệu, đưa nguyên liệu, hàng hóa sang và tổ chức sản xuất hàng hóa xuất khẩu ngay tại thị trường đó.

5. Mở rộng việc hình thành và củng cố vai trò của các hiệp hội ngành hàng để tăng cường tính tổ chức và tính tập thể trong môi trường cạnh tranh. Khắc phục xu hướng “quốc doanh hóa hiệp hội”, khẳng định nguyên tắc cơ bản của các hiệp hội là nguyên tắc”mở”, quy tụ tất cả các doanh nghiệp có chung quyền lợi, bất kể thành phần kinh tế, bất kể quy mô. Khuyến khích các hiệp hội tự thành lập quỹ phòng ngừa rủi ro và tham gia các hiệp hội ngành hàng quốc tế để phối hợp hành động, ổn định giá cả.

6. Sớm hoàn thiện Quỹ Hỗ trợ tín dụng Xuất khẩu theo đúng các tiêu chí của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (1998) để trợ giúp các doanh nghiệp có tiềm năng thông qua việc cấp tín dụng với lãi suất ưu đãi, bảo lãnh tiền vay và cấp tín dụng qua việc cấp tín dụng với lãi suất ưu đãi, bảo lãnh tiền vay và cấp tín dụng xuất khẩu cho người mua nước ngoài, tiến tới thành lập Ngân hàng Xuất Nhập khẩu. Nghiên cứu thành lậpQuỹ hoặc Công ty Bảo hiểm Xuất khẩu để bảo hiểm rủi ro thanh toán khi tiếp cận các thị trường mới. Khuyến khích các hiệp hội ngành hàng tự hình thành các quỹ bảo hiểm đề phòng rủi ro, kể cả trong trường hợp giá thị trường thế giới biến động. Nhà nước có chính sách thưởng cho các doanh nghiệp, cá nhân làm tốt công tác xuất khẩu.

7. Thiết kế mạng lưới các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài, kể cả Tham tán thương mại phục vụ thiết thực cho việc mở rộng quan hệ kinh tế và thị trường tiêu thụ sản phẩm, tăng cường trách nhiệm của các bộ phận đó đối với việc cung cấp thông tin, hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm bạn hàng. Khuyến khích và hỗ trợ cho các doanh nghiệp mở văn phòng đại diện ởbên ngoài để tiếp thị, xúc tiến xuất khẩu.

8. Giao Bộ Thương mại cùng Uỷ ban công tác người Việt ở nước ngoài hình thành mạng lưới người Việt sinh sống ở nước ngoài làm đại lý tiêu thụ hàng hóa cho Việt Nam.

9. Giao Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan lập chương trình đào tạo cán bộ, công nhân lành nghề phục vụ cho hoạt động xuất – nhập khẩu thời gian tới.

10. Giao Bộ Thương mại giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo việc triển khai Chiến lược Phát triển Xuất – nhập khẩu theo hướng:

– Các bộ ngành sản xuất cần phối hợp với Bộ Kế hoạch – Đầu tư, BộThương mại xây dựng các chương trình, kế hoạch xuất khẩu, nhất là đối với các mặt hàng chủ lực, từ khâu sản xuất tới khâu tiêu thụ; hướng dẫn, hỗ trợ các nhà sản xuất thực hiện;

– Bộ thương mại cùng Bộ Tư pháp có chương trình xây dựng các văn bản pháp quy để trìnhThủ tướng Chính phủ hoặc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét;

– Các Bộ, ngành thành viên Uỷ ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tếQuốc tế, dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Uỷ ban, sớm hoàn tất việc xây dựng lộ trình hội nhập quốc tế trình Chính phủ thông qua;

– Các Bộ Tài chính, Kế hoạch – Đầu tư, Thương mại, Ngân hàng Nhà nước xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách về tài chính, tín dụng nhằm khuyến khích xuất khẩu;

– Bộ Thương mại chủ trì xây dựng các đề án triển khai các chủ trương nêu trong Chiến lược nhằm hoàn thiện, đối mới hoạt động, kinh doanh xuất – nhập khẩu trình Thủ tướng Chính phủ.

Thuộc tính văn bản
Công văn 3936/TM-XNK của Bộ Thương mại về việc triển khai Chiến lược phát triển xuất – nhập khẩu thời kỳ 2001-2010
Cơ quan ban hành: Bộ Thương mại Số công báo: Đã biết
Số hiệu: 3936/TM-XNK Ngày đăng công báo: Đang cập nhật
Loại văn bản: Công văn Người ký: Vũ Khoan
Ngày ban hành: 14/11/2000 Ngày hết hiệu lực: Đang cập nhật
Áp dụng: Đã biết Tình trạng hiệu lực: Đã biết
Lĩnh vực: Xuất nhập khẩu , Chính sách

CÔNG VĂN

CỦA BỘ THƯƠNG MẠI SỐ 3936/TM-XNK NGÀY 14 THÁNG 11 NĂM 2000 VỀ VIỆC TRIỂN KHAI CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN
XUẤT – NHẬP KHẨU THỜI KỲ 2001 – 2010

Kính gửi:

– Các đ/c Bộ trưởng và Thủ trưởng các ngành liên quan thuộc Chính phủ

– Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ

Thi hành Chỉ thị số 22/2000/CT-TTg ngày 27/10/2000 của Thủ tướng Chính phủ về chiến lược phát triển xuất – nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ thời kỳ 2001-2010, Bộ Thương mại xin trân trọng gửi tới các đồng chí bản tóm tắt chiến lược đã được Chính phủ thông qua để làm cơ sở cho việc xây dựng các chương trình cụ thể về xuất khẩu trong 10 năm tới.

Bộ Thương mại trân trọng đề nghị các Bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức truyền đạt những nội dung cơ bản của Chiến lược phát triển xuất – nhập khẩu thời kỳ 2001-2010 tới các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, quan tâm chỉ đạo xây dựng chương trình, kế hoạch đẩy mạnh xuất khẩu của ngành, địa phương mình để góp phần thực hiện thành công Chỉ thị số 22/2000/CT-TTg ngày 27/10/2000 của Thủ tướng Chính phủ.


BỘ THƯƠNG MẠI

CỘNG HÒA Xà HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Hà nội, ngày 11 tháng 11 năm 2000

BẢN TÓM TẮT

CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP KHẨU THỜI KỲ 2001-2010

Chiến lược phát triển xuất – nhập khẩu thời kỳ 2001-2010 được xây dựng nhằm cụ thể hóa những định hướng nêu trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng đang được thảo luận, đề ra những định hướng và biện pháp cụ thể để phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Chiến lược xuất – nhập khẩu được trình bày thành 3 phần. Phần thứ nhất đưa ra những đánh giá tổng quát về hoạt động xuất – nhập khẩu trong 10 năm trước. Phần thứ hai đưa ra những định hướng lớn cho công tác xuất – nhập khẩu. Phần thứ ba đề xuất các chính sách và giải pháp thực hiện Chiến lược.

PHẦN THỨ NHẤT
ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT HOẠT ĐỘNG
XUẤT – NHẬP KHẨU THỜI KỲ 1991-2000

I. NHỮNG THÀNH TỰU Đà ĐẠT ĐƯỢC:

1. Đã đạt được mục tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 1991-2000: kim ngạch xuất khẩu năm 2000 dự kiến đạt 13,5 tỷ USD, gấp 5,6 lần kim ngạch năm 1990 (2,4 tỷ USD). Nhịp độ tăng trưởng bình quân 18,4% năm, nhanh hơn tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 2,6 lần (GDP tăng bình quân 7,6%/năm).

2. Cơ cấu xuất khẩu đã được cải thiện theo hướng “tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô, tạo một số mặt hàng có khối lượng lớn và thị trường tương đối ổn định”. Tỷ trọng sản phẩm chế biến đã tăng từ 8% vào năm 1991 lên khoảng 40% vào năm 2000. Năm 1991 mới có 4 mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 100 triệu USD là dầu thô, thủy sản, gạo và hàng dệt may; nay có thêm 8 mặt hàng nữa là cà phê, cao su, điều, giày dép, than đá, điện tử, thủ công mỹ nghệ và rau quả. Về một số mặt hàng, nước ta đã chiếm lĩnh vị trí cao: gạo đứng hàng thứ hai trên thế giới, cà phê đứng thứ hai, hạt tiêu và hạt điều đứng thứ ba.

3. Việc thực hiện chủ trương “phát triển nhiều hình thức dịch vụ thu ngoại tệ, nhất là hoạt động du lịch” có nhiều tiến bộ. Khách du lịch nước ngoài vào Việt Nam đã tăng từ 250 ngàn lượt người vào năm 1991 lên khoảng 2 triệu lượt người vào năm 2000, doanh thu đạt khoảng 450 triệu USD. Lao động ở nước ngoài, tính đến năm 2000 có khoảng 9 vạn người, đem lại khoảng 500 triệu USD thu nhập hàng năm. Các dịch vụ khác như ngân hàng, hàng không, viễn thông, xây dựng, y tế, giáo dục.. thu được khoảng 1 tỷ USD vào năm 2000.

4. Nhập khẩu, về cơ bản, đã “phục vụ có hiệu quả cho phát triển sản xuất và đổi mới công nghệ, thúc đẩy nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hóa, đáp ứng nhu cầu cần thiết của đời sống”. Tư liệu sản xuất hiện nay chiếm gần 95% kim ngạch nhập khẩu, trong đó 26-27% là máy móc thiết bị, 68% là nguyên nhiên vật liệu; hàng tiêu dùng chỉ chiếm khoảng 5% (năm 1990 là 15%). Nhập siêu giảm cả về giá trị tuyệt đối lẫn tương đối: năm 1996 còn nhập siêu gần 4 tỷ USD, tới năm 1999 chỉ còn khoảng 0,2 tỷ USD; tỷ trọng nhập siêu so với xuất khẩu đã giảm từ 33% trong kỳ 1991-1995 xuống còn 18% trong kỳ 1996-2000.

5. Đã vượt qua được sự khủng hoảng thị trường vào đầu những năm 90 do chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu bị xóa bỏ; đã đẩy lùi được chính sách bao vây, cấm vận và về cơ bản thực hiện được chủ trương “đa dạng hóa thị trường và đa phương hóa quan hệ kinh tế… tích cực thâm nhập, tạo chỗ đứng ở các thị trường mới, phát triển các quan hệ mới”. Nay nước ta có quan hệ thương mại với trên 160 nước và vùng lãnh thổ trong đó đã ký Hiệp định Thương mại với 61 nước. Chủ trương “gia nhập các tổ chức và hiệp hội kinh tế quốc tế khác khi cần thiết và có điều kiện” đã được thực hiện bằng việc gia nhập ASEAN (1995), ASEM (1996), APEC (1998) và trở thành quan sát viên WTO (1995).

6. Chính phủ đã đổi mới một cách cơ bản cơ chế quản lý theo hướng mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu, giảm dần hàng rào phi thuế hạn chế cơ chế “xin cho”, giảm bớt sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nâng cao vai trò của các công cụ vĩ mô như thuế, lãi suất, tỷ giá. Chính phủ cũng đã dành sự quan tâm đặc biệt cho xuất khẩu thông qua các chương trình hỗ trợ như trợ cấp, trợ giá, lập Quỹ Hỗ trợ, Quỹ thưởng…. Hành lang pháp lý từng bước được hoàn thiện; trong đó đã thông qua được Luật Thương mại.

Nhìn chung lại, trong 10 năm qua, lĩnh vực suất – nhập khẩu đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, về cơ bản đã thực hiện được những chủ trương nêu ra trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2000, góp phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, thúc đẩy sản xuất, tạo thêm nhiều công ăn việc làm, thu ngoại tệ để trang trải nhu cầu nhập khẩu và tích lũy.

Những thành tựu trên bắt nguồn từ những nguyên nhân chủ yếu sau:

Một là, công cuộc đổi mới đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, cơ cấu sản xuất chuyển dịch dần, từ đó thúc đẩy xuất khẩu và cải thiện cơ cấu xuất – nhập khẩu.

Hai là, xuất khẩu được đặt thành một nhiệm vụ trọng tâm, sản xuất gắn liền với lưu thông, xuất khẩu; các cơ chế chính sách ngày càng phù hợp, thông thoáng, tạo thuận lợi cho các ngành sản xuất, các địa phương và các thành phần kinh tế tham gia xuất nhập khẩu.

Ba là, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới đã góp phần đẩy lùi chính sách bao vây cấm vận, mở rộng thị trường xuất – nhập khẩu. Đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong kinh doanh xuất nhập khẩu (từ 4% năm 1994 lên 22,3% năm 1999, nếu kể cả dầu khí thì lên tới 35%).

II. NHỮNG VẤN ĐỀ TỒN TẠI

1. Quy mô xuất khẩu còn quá nhỏ so với các nước trong khu vực; bình quân tính theo đầu người khoảng 175 USD năm 2000, trong khi Malaysia năm 1996 đã đạt mức 3700 USD, Thái Lan 933 USD và Philippin là 285 USD. Riêng Trung Quốc năm 1999 kim ngạch xuất khẩu đạt 195 tỷ USD bình quân đầu người 163 USD.

2. Việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất, ngành hàng chưa bám sát tín hiệu của thị trường thế giới nên nhiều sản phẩm làm ra không tiêu thụ được. Khả năng cạnh tranh của nhiều hàng hóa còn thấp do giá thành cao, chất lượng còn kém, mẫu mã chưa phù hợp với nhu cầu thị trường. Đầu tư vào khâu nâng cao khả năng cạnh tranh và khả năng tiêu thụ chưa thỏa đáng. Tỷ trọng hàng thô và sơ chế trong cơ cấu xuất khẩu còn khá cao. Trong số sản phẩm chế biến, hàng gia công còn chiếm tỷ trọng lớn. Tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng công nghệ và trí tuệ cao còn rất nhỏ. Xuất khẩu dịch vụ còn thấp xa so với tiềm năng.

3. Nhập khẩu chưa cải thiện được tình trạng lạc hậu về công nghệ ở một số ngành; ít tiếp cận được với công nghệ nguồn. Tình trạng nhập siêu lớn tuy đã được khắc phục nhưng chưa thật vững chắc.

4. Sự hiểu biết về thị trường ngoài còn hạn chế. Nhà nước chưa cung cấp được thông tin đầy đủ cho các doanh nghiệp. Ngược lại, nhiều doanh nghiệp còn ỷ lại vào Nhà nước, thụ động chờ khách hàng. Đối với một số thị trường, hàng xuất khẩu vẫn còn phải qua trung gian.

5. Việc hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới còn không ít lúng túng. Cho tới nay chưa hình thành được chiến lược tổng thể, chưa có lộ trình giảm thuế và hàng rào phi quan thuế dài hạn. Nhiều doanh nghiệp còn trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước và Nhà nước cũng chưa đưa ra được lộ trình giảm dần sự bảo hộ.

6. Công tác quản lý nhà nước về thương mại tuy đã có nhiều sự cải tiến nhưng nhìn chung còn khá thụ động. Sự phối hợp giữa các Bộ, ngành địa phương, đã có chuyển biến tích cực nhưng nhìn chung chưa tạo được sức mạnh tổng hợp. Còn thiếu cán bộ quản lý có trình độ.

Những tồn tại trên bắt nguồn từ những nguyên nhân chủ yếu sau:

Một là, trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp, cơ cấu kinh tế nói chung còn lạc hậu, từ năm 1997 lại chịu tác động không ít của cuộc khủng hoảng trong khu vực. Toàn bộ tình hình đó tác động tiêu cực tới hoạt động xuất – nhập khẩu.

Hai là, nền kinh tế nước ta trên thực tế mới chuyển sang cơ chế thị trường và mới tiếp cận với thị trường toàn cầu trong khoảng mươi năm trở lại đây, trình độ cán bộ còn chưa theo kịp nhu cầu nên không thể tránh khỏi bỡ ngỡ.

Ba là, còn lúng túng trong việc đề ra cơ chế quản lý nhằm thực hiện phương châm hướng mạnh ra xuất khẩu và chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Đặc biệt, nhiều chủ trương chính sách đã được ban hành nhưng việc triển khai thực hiện còn chậm, kém hiệu quả.


PHẦN THỨ HAI
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN XUẤT – NHẬP KHẨU
THỜI KỲ 2001-2010

I. TÌNH HÌNH TRONG NƯỚC, THẾ GIỚI VÀ NHỮNG THUẬN LỢI,
KHÓ KHĂN ĐẶT RA CHO HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU:

Bước vào thời kỳ 2001-2010, thế và lực của nước ta đã khác hẳn 10 năm trước đây. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, cơ sở hạ tầng và năng lực sản xuất được cải thiện đáng kể, thị trường được mở rộng. Tuy nhiên, trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp, GDP bình quân đầu người năm 2000 mới đạt gần 400 USD. Cơ cấu kinh tế và trình độ công nghệ nhìn chung còn lạc hậu. Khả năng cạnh tranh còn thấp ở cả cấp độ quốc gia, doanh nghiệp lẫn sản phẩm.

Trên bình diện quốc tế, khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, đưa thế giới vào thời kỳ pháttriển mới: thời kỳ kinh tế tri thức và xã hội thông tin. Các ngành dịch vụ và các ngành kinh tế giàu hàm lượng chất xám phát triển mạnh. Khái niệm thương mại được mở rộng, bao gồm cả các sản phẩm hữu hình của nền sản xuất truyền thống lẫn các sản phẩm “mềm” của nền sản xuất dựa vào tri thức. Mức độ phổ cập của mạng Internet khiến tỷ trọng của thương mại điện tử tăng nhanh, qua đó thay đổi hẳn phương thức kinh doanh (theo số liệu của UNCTAD thì năm 1995, giá trị thương mại điện tử mới có 100 triệu USD thì năm 1999 đã là 180 tỷ USD và năm 2002 sẽ lên tới khoảng 1.234 tỷ USD).

Xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa với các mặt tích cực và tiêu cực của nó sẽ tiếp tục diễn biến thông qua sự hợp tác – đấu tranh phức tạp giữa các đối tác. Đặc biệt, cuộc khủng hoảng vừa qua cho thấy kinh tế thế giới và khu vực còn ẩn chứa nhiều nhân tố bất trắc. Không loại trừ khả năng sẽ còn xảy ra các cuộc khủng hoảng về kinh tế và tài chính mới.

Trong nền kinh tế thế giới, các nước công nghiệp phát triển vẫn giữ vị trí áp đảo. Mỹ sẽ tiếp tục làsiêu cường hàng đầu, vừa cạnh tranh gay gắt, vừa tìm cách dung hòa lợi ích với Tây Âu, Nhật, Nga, Trung Quốc, và ở một chừng mực nào đó là n Độ, sẽ chiếm vị trí ngày càng lớn trong nền kinh tế và thương mại thế giới. Châu Á – Thái Bình Dương đang hồi phục nhanh chóng sau khủng hoảng, tiếp tục là một thị trường tiêu thụ rộng lớn và cùng châu Âu hình thành không gian kinh tế Á – Âu (Eurasia).

Nhìn chung lại, vào thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, hoạt động xuất – nhập khẩu của nước ta có những thuận lợi và khó khăn chủ yếu sau:

1. Về thuận lợi:

Như trên đã nói, “thế” và “lực” của nước ta đã khác trước. Các nguồn lựa như lao động, đất đai, tài nguyên… còn khá dồi dào. Cơ sở hạ tầng được cải thiện hơn, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế và đẩy mạnh xuất khẩu. Với bên ngoài, ta đã có quan hệ kinh tế – thương mại với nhiều nước và nhiều tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế. Hàng hóa Việt Nam đã có mặt tại tất cả các nước lớn và các trung tâm kinh tế lớn. Quá trình hội nhập sẽ tạo cơ hội cho ta mở rộng thị trường để phát triển kinh tế và tăng cường quan hệ thương mại.

2. Về khó khăn, thách thức:

– Nước ta vẫn là một nước nghèo và kém phát triển. Dự kiến 10 năm tới chỉ có thể đưa GDP lên gấp đôi. Cơ cấu sản xuất sẽ tiếp tục chuyển dịch theo hướng tiến bộ hơn song nhìn chung còn lạc hậu so với chiều hướng phát triển của thế giới. Thực trạng đó ảnh hưởng tiêu cực tới quy mô, cơ cấu và hiệu quả của hoạt động xuất – nhập khẩu.

– Năng lực cạnh tranh của quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm còn thấp trong khi nước ta lại phải nhập cuộc đua tranh ngày càng gay gắt trên thị trường khu vực và thế giới. Trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu và công tác tham mưu về chiến lược, chính sách còn bất cập.

– Kinh tế thế giới và khu vực, đặc biệt là tình hình tài chính – tiền tệ – tỷ giá, giá sản phẩm, nhất là giá nông sản, nhiên liệu còn chứa đựng nhiều nhân tố không ổn định, khó dự báo, có thể tác động tiêu cực tới nền kinh tế và kinh doanh xuất – nhập khẩu của nước ta.

Nhìn toàn cục, nước ta đứng trước nhiều thuận lợi hơn so với khi bước vào thập kỷ 90. Tuy nhiên, không thể xem thường các thách thức, khó khăn như đã trình bày trên.

II. MỤC TIÊU VÀ QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN XUẤT – NHẬP KHẨU:

Hoạt động xuất – nhập khẩu trong 10 năm tới cần phục vụ trực tiếp cho mục tiêu chung sẽ được thông qua tại Đại hội lần thứ IX của Đảng với nội dung cơ bản là: nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, góp phần đẩy mạnh CNH-HĐH, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ; chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, các loại sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ; về nhập khẩu chú trọng thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, nhất là công nghệ tiên tiến, bảo đảm cán cân thương mại ở mức hợp lý, tiến tới cân bằng kim ngạch xuất – nhập khẩu; mở rộng và đa dạng hóa thị trường và phương thức kinh doanh; hội nhập thắng lợi vào kinh tế khu vực và thế giới.

Để đạt các mục tiêu trên, cần nắm vững các quan điểm chỉ đạo sau:

Một là, tiếp tục kiên trì chủ trương dành ưu tiên cao cho xuất khẩu để thúc đẩy tăng trưởng GDP, phát triển sản xuất, thu hút lao động, có thêm ngoại tệ;

Hai là, chủ động hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ và định hướng XHCN, với kế hoạch tổng thể và lộ trình cũng như các bước đi hợp lý, phù hợp với trình độ phát triển của đất nước và quy định của các tổ chức mà ta tham gia;

Ba là, lấy việc phát huy nội lực, đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý; hoàn chỉnh hệ thống luật pháp; nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng như của toàn bộ nền kinh tế làm khâu then chốt, có ý nghĩa quyết định đối với việc mở rộng kinh doanh xuất – nhập khẩu, hội nhập quốc tế.

Bốn là, gắn kết thị trường trong nước với thị trường ngoài nước; vừa chú trọng thị trường trong nước, vừa ra sức mở rộng và đa dạng hóa thị trường ngoài.

Năm là, kiên trì chủ trương đa dạng hóa các thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất – nhập khẩu, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo;

III. CÁC CHỈ TIÊU CỤ THỂ:

A. VỀ QUY MÔ VÀ TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG

Các chỉ tiêu xuất – nhập khẩu một phần quan trọng tùy thuộc vào chỉ tiêu chung của nền kinh tế. Theo dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội thời kỳ 2001-2010 thì trong vòng 10 năm tới GDP sẽ tăng gấp đôi (bình quân hàng năm phải tăng khoảng 7,2%); giá trị sản lượng nông nghiệp tăng khoảng 4%/năm, vào năm 2010 sản lượng lương thực đạt 40 triệu tấn, nông nghiệp chiếm tỷ trọng khoảng 16-17% GDP trong đó tỷ trọng sản phẩm chăn nuôi tăng từ 18,6% lên 20-25%, thủy sản đạt sản lượng 2,5-3 triệu tấn; giá trị gia tăng của công nghiệp tăng bình quân hàng năm 8-9%, đến năm 2010 công nghiệp chiếm tỷ trọng 40-41% GDP, tỷ trọng công nghiệp chế tác chiếm 80% giá trị sản xuất công nghiệp.

Dự thảo Chiến lược còn dự kiến nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu nhanh gấp đôi nhịp độ tăng trường GDP, tức là khoảng 14,4%/năm, trong đó nông sản xuất khẩu qua chế biến đạt kim ngạch 6-7 tỷ USD vào năm 2010, lương thực bình quân 4-5 triệu tấn/năm, khoáng sản đạt kim ngạch khoảng 3 tỷ USD, sản phẩm công nghiệp chiếm 70-80% tổng kim ngạch xuất khẩu (các chỉ tiêu này sẽ còn được điều chỉnh).

Việc gia tăng xuất khẩu 14,4%/năm là nhiệm vụ không đơn giản vì:

– Xuất phát điểm của thời kỳ 2001-2010 cao hơn nhiều so với thời kỳ 1991-2000 (13,5 tỷ USD so với 2,4 tỷ USD). Với những hạn chế còn tồn tại trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là những hạn chế mang tính cơ cấu, thì việc gia tăng giá trị tuyệt đối ở mức trên 2 tỷ USD/năm đòi hỏi sự nỗ lực cao độ trong công tác xuất nhập khẩu.

– Trong 10 năm qua, khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp một phần khá lớn cho tăng trưởng xuất khẩu, mở ra những mặt hàng mới và khai phá các thị trường mới. Kể từ năm 1998, đầu tư nước ngoài vào nước ta có chiều hướng chững lại và giảm dần. Hiện nay chưa rõ khả năng có chặn đứng được chiều hướng này không. Nếu chiều hướng đó còn tiếp diễn thì có thể ảnh hưởng đáng kể tới tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, chí ít là trong những năm đầu của thời kỳ 2001-2010.

Tuy nhiên, yêu cầu tăng nhanh quy mô và tốc độ xuất khẩu là một nhiệm vụ cấp thiết đối với nền kinh tế nước ta. Một mặt nó khắc phục nguy cơ tụt hậu không chỉ đối với các nước phát triển trên thế giới mà ngay cả với các nước trong khu vực. Hiện nay kim ngạch xuất khẩu của Malaysia cao hơn ta khoảng 6 lần, Thái Lan hơn ta khoảng 4,5 lần. Nếu ta phấn đấu đến năm 2010 đạt kim ngạch xuất khẩu khoảng 60 tỷ USD và với mức tăng trưởng như hiện nay của hai nước thì khoảng cách đó có thể rút ngắn xuống bằng 1/3 Malaysia và 1/2 Thái Lan.Mặt khác, nó còn tạo ra nguồn ngoại tệ cân đối nhập khẩu, tăng tích lũy ngoại tệ, tiếp cận nền khoa học công nghệ cao của thế giới phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo công ăn việc làm cho người lao động.

Dựatrên kinh nghiệm 10 năm qua kết hợp với những dự báo về sản xuất và thị trường trong 10 năm tới và trên cơ sở phát huy nội lực, có tính đến sự thay đổi có tính đột biến, Bộ Thương mại đề xuất phương án phấn đấu tăng trưởng xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2010 như sau:

1. Về xuất khẩu:

a) Xuất khẩu hàng hóa:

– Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 15%/năm, trong đó thời kỳ 2001-2005 tăng 16%/năm, thời kỳ 2006-2010 tăng 14%/năm.

– Giá trị tăng từ khoảng 13,5 tỷ USD năm 2000 lên 28,4 tỷ USD vào năm 2005 và 54,6 tỷ USD vào năm 2010, gấp hơn 4 lần 2000.

b) Xuất khẩu dịch vụ:

– Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 15%/năm.

– Giá trị tăng từ khoảng 2 tỷ USD năm 2000 lên 4 tỷ USD vào năm 2005 và 8,1 tỷ USD vào năm 2010, tức là gấp hơn 4 lần;

c) Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng từ khoảng 15,5 tỷ USD vào năm 2000 lên 32,4 tỷ USD vào năm 2005 và 62,7 tỷ USD vào năm 2010 (hơn 4 lần);

2. Về nhập khẩu:

Do nước ta còn đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trình độ phát triển kinh tế còn thấp nên chưa thể xóa bỏ được ngay tình trạng nhập siêu. Tuy nhiên cần phải rất tiết kiệm ngoại tệ trong nhập khẩu, chỉ nhập khẩu những hàng hóa cần thiết, máy móc thiết bị công nghệ mới và sản xuất ra nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, sản xuất để giảm thiểu nhu cầu nhập khẩu, phải giữ được thế chủ động trong nhập khẩu, kiềm chế được nhập siêu và giảm dần tỷ lệ nhập siêu tiến tới sớm cân bằng xuất nhập và xuất siêu. Theo hướng đó dự kiến nhập khẩu như sau:

a) Nhập khẩu hàng hóa:

– Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 14%/năm, trong đó thời kỳ 2001-2005 là 15% và thời kỳ 2006-2010 là 13%.

– Giá trị kim ngạch tăng từ khoảng 14,5 tỷ USD năm 2000 lên 29,2 tỷ USD năm 2005 (cả thời kỳ 2001-2005 nhập khẩu 112 tỷ USD) và 53,7 tỷ USD vào năm 2010.

b) Nhập khẩu dịch vụ:

– Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 11%/năm.

– Giá trị tăng từ khoảng 1,2 tỷ USD năm 2000 lên 2,02 tỷ USD năm 2005 và 3,4 tỷ USD năm 2010.

c) Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ:

Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng từ khoảng 15,7 tỷ USD năm 2000 lên 31,2 tỷ USD năm 2005 và 57,14 tỷ USD năm 2010.

Như vậy, trong 5 năm đầu (2001-2005) nhập siêu về hàng hóa giảm dần, mỗi năm bình quân 900 triệu USD và cả thời kỳ là 4,73 tỷ USD; 5 năm sau (2006-2010) nhập siêu tiếp tục giảm. Đến năm 2008 cân bằng xuất nhập hàng hóa phấn đấu xuất siêu khoảng 1 tỷ USD vào năm 2010. Nếu tính cả xuất khẩu dịch vụ thì tới năm 2002 đã cân bằng xuất nhập khẩu và bắt đầu xuất siêu, năm 2010 xuất siêu 5,5 tỷ USD.

Tuy nhiên, như trên đã nói, tình hình kinh tế khu vực và thế giới còn ẩn chứa nhiều nhân tố khó lường; do đó cần đề phòng những tình huống bất trắc nảy sinh.

B. VỀ CƠ CẤU HÀNG HÓA XUẤT – NHẬP KHẨU VÀ CƠ CẤU DỊCH VỤ

1. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu:

Cơ cấu xuất khẩu hàng hóa trong 10 năm tới cần được chuyển dịch theo hướng chủ yếu sau:

– Trước mắt huy động mọi nguồn lực hiện có thể có để đẩy mạnh xuất khẩu, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ;

– Đồng thời cần chủ động gia tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến và chế tạo với giá trị gia tăng ngày càng cao, chú trọng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ và trí thức cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô;

– Mặt hàng, chất lượng, mẫu mã cần đáp ứng nhu cầu của từng thị trường;

– Rất chú trọng việc gia tăng các hoạt động dịch vụ.

Tiếc rằng, các mặt hàng xuất nhập khẩu mới được đề cập chủ yếu ở trạng thái “tĩnh”, chưa thể dự báo được những mặt hàng sẽ xuất hiện trong tương lai do thị trường mách bảo và năng lực sản xuất của ta.

Theo các hướng nói trên, chính sách các nhóm hàng có thể hình dung như sau:

1.1. Nhóm nguyên nhiên liệu:

Hiện nay nhóm này, với hai mặt hàng chính là dầu thô và than đá, đang chiếm khoảng trên 20% kim ngạch xuất khẩu của nước ta. Sau khi nhà máy lọc dầu Dung Quất đi vào hoạt động, lượng dầu thô xuất khẩu sẽ giảm dần. Dự kiến vào năm 2005 lượng dầu thô xuất khẩu chỉ còn khoảng gần 12 triệu tấn (hiện nay là 16 triệu tấn). Tới năm 2010 có hai phương án, tùy thuộc vào lượng khai thác:

– Nếu khai thác 14 – 16 triệu tấn thì sẽ sử dụng trong nước khoảng 12 triệu tấn, xuất khẩu 2 – 4 triệu tấn;

– Nếu khai thác 20 triệu tấn thì có khả năng xuất khẩu khoảng 8 triệu tấn.

Dù theo phương án nào thì kim ngạch dầu thô cũng sẽ giảm đáng kể vào năm 2010 (theo phương án 1 thì tỷ trọng dầu thô trong giá trị xuất khẩu dự kiến sẽ chỉ còn dưới 1% so với 22% hiện nay; theo phương án 2 thì tỷ lệ đó sẽ còn khoảng 3%). Thị trường xuất khẩu chính vẫn là Ô-xtrây-lia, Singgapore, Nhật Bản và Trung Quốc, có thể thêm Hoa Kỳ.

Việc giảm xuất khẩu dầu thô sẽ đi đôi với việc giảm nhập khẩu sản phẩm xăng dầu từ nước ngoài. Dự kiến đến năm 2010 sản xuất trong nước sẽ đáp ứng được gần 80% nhu cầu về sản phẩm dầu và khí, tức là khoảng 13 triệu tấn sản phẩm/năm, trị giá trên 3 tỷ USD. Nhập khẩu xăng dầu vào năm 2010 chỉ còn khoảng 4 triệu tấn, giảm 50% so với 8 triệu tấn hiện nay; nếu tính theo thời giá hiện nay thì sẽ giảm khoảng 850-900 triệu USD.

Về than đá, dự kiến nhu cầu nội địa sẽ tăng đáng kể do xây các nhà máy nhiệt điện mới nên dù sản lượng có thể lên tới 15 triệu tấn/năm (hiện nay là 10-12 triệu tấn/năm) xuất khẩu cũng sẽ chỉ dao động ở mức 4 triệu tấn/năm trong 10 năm tới, mang lại kim ngạch mỗi năm khoảng 120-150 triệu USD. Nhìn chung, giá xuất khẩu than khó có khả năng tăng đột biến do nguồn cung trên thị trường thế giới tương đối dồi dào, vả lại vì lý do môi trường nên cầu có xu hướng giảm. Nhiệm vụ chủ yếu trong những năm tới là cố gắng duy trì những thị trường đã có như Nhật Bản, Trung Quốc, Tây Âu… và tăng cường thâm nhập vào thị trường Thái Lan, Hàn Quốc…

Khả năng tăng xuất khẩu các loại khoáng sản khác để bù vào thiếu hụt của dầu thô là rất hạn chế. Cho đến năm 2010, quặng apatit khai thác ra chỉ có thể đáp ứng một phần cho nhu cầu sản xuất phân bón, chưa có khả năng tham gia xuất khẩu. Khả năng sản xuất và xuất khẩu alumin sẽ tùy thuộc vào việc triển khai dự án (nếu có thì chỉ từ sau 2005). Quặng sắt khó có khả năng xuất khẩu với số lượng lớn bởi nhu cầu trong nước sẽ tăng mạnh, khả năng khai thác quặng Thạch Khê còn chưa rõ nét. Đất hiếm tuy có nhưng trữ lượng thương mại không nhiều, việc xuất khẩu lại rất khó khăn do công nghệ chế biến phức tạp, cung cầu thế giới đã ổn định. Các loại quặng khác trữ lượng đều không đáng kể.

Như vậy, tới năm 2005, nhóm nguyên nhiên liệu có khả năng chỉ còn đóng góp được khoảng 9% kim ngạch xuất khẩu (2,5 tỷ USD) so với trên 20% hiện nay; đến năm 2010, tỷ trọng của nhóm này sẽ giảm xuống còn chưa đầy 1% (dưới 500 triệu USD) hoặc 3,5% (khoảng 1,75 tỷ USD), tùy theo phương án khai thác dầu thô. Vì vậy, việc tìm ra các mặt hàng mới để thay thế là một thách thức lớn đối với việc gia tăng xuất khẩu.

1.2. Nhóm hàng nông, lâm, thủy sản:

Hiện nay nhóm này đang chiếm gần 25% kim ngạch xuất khẩu với những mặt hàng chủ yếu là gạo, cà phê, cao su, chè, rau quả, thủy sản, hạt tiêu và nhân điều (trừ mặt hàng chè, tất cả các mặt hàng khác đều đạt kim ngạch trên 100 triệu USD/năm). Do sản xuất nông nghiệp phải chịu những hạn chế mang tính cơ cấu (như diện tích có hạn, khả năng khai thác và đánh bắt có hạn…) và thời tiết nên theo dự thảo Chiến lược chung, tốc độ tăng trưởng của nhóm này sẽ chỉ ở mức 4%/năm trong toàn kỳ 2001-2010. Bên cạnh đó, nhu cầu của thị trường thế giới cũng có hạn, giá cả lại không ổn định. Vì vậy, dù kim ngạch tuyệt đối vẫn tăng nhưng tỷ trọng của nhóm sẽ giảm dần xuống còn 22% (tương đương 5,85 tỷ USD) vào năm 2005 và 17,2% (tương đương 8-8,6 tỷ USD) vào năm 2010.

Hướng phát triển chủ đạo của nhóm hàng này trong 10 năm tới là chuyển dịch cơ cấu toàn lĩnh vực, trong mỗi ngành, thậm chí trong từng loại sản phẩm, nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng. Để đạt mục tiêu này, cần có sự đầu tư thích đáng vào khâu giống và công nghệ sau thu hoạch, kể cả đóng gói, bảo quản, vận chuyển… để tạo ra những đột phá về năng suất và chất lượng sản phẩm.

Hạt nhân tăng trưởng của nhóm sẽ là thủy sản bởi tiềm năng khai thác và nuôi trồng còn nhiều, nhu cầu thị trường thế giới tăng khá ổn định, thuế suất thấp. Năm 1985 xuất khẩu thủy sản thế giới mới đạt 17,2 tỷ USD, tới năm 1995 đã đạt 52 tỷ USD, tức là tăng bình quân mỗi năm trên 13%. Điều này liên quan tới xu thế tiêu dùng của thế giới là giảm tiêu thụ thịt, tăng tiêu thụ thủy sản. Với sản lượng dự kiến đạt 3,7 triệu tấn thì kim ngạch xuất khẩu thủy sản của ta sẽ đạt 2,5 tỷ USD vào năm 2005 và 3,2-3,5 tỷ USD vào năm 2010, chiếm 40% tổng kim ngạch của nhóm nông lâm hải sản. Thị trường chính sẽ là Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ, Trung Quốc… Để bảo đảm tốc độ tăng trưởng ổn định cho mặt hàng này, cần tiếp tục chú trọng đầu tư để phát triển đánh bắt xa bờ và nuôi trồng, chuyển từ quảng canh sang thâm canh, phát triển những mặt hàng có kim ngạch cao như tôm, nhuyễn thể. Công nghệ sau thu hoạch cũng cần có sự quan tâm thỏa đáng để nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và vệ sinh thực phẩm của sản phẩm xuất khẩu.

Về gạo, do nhu cầu thế giới tương đối ổn định, khoảng trên 20 triệu tấn/năm, nhiều nước nhập khẩu nay chú trọng an ninh lương thực, thâm canh tăng năng suất cây trồng, gia tăng bảo hộ, giảm nhập khẩu. Trong hoàn cảnh đó, dự kiến trong suốt thời kỳ 2001-2010 nhiều lắm ta sẽ chỉ có thể xuất khẩu được khoảng 4 – 4,5 triệu tấn/năm, thu về mỗi năm khoảng trên 1 tỷ USD. Để nâng cao hơn nữa kim ngạch, cần đầu tư để cải thiện cơ cấu và chất lượng gạo xuất khẩu; khai thác các thị trường mới (như Trung Đông, Châu Phi, Nam Mỹ) và ổn định các thị trường đã có như Indonesia, Philippines… thông qua các hợp đồng G-to-G, nghiên cứu khả năng phối hợp với Thái Lan để điều tiết nguồn cung, ổn định giá cả thị trường, tăng hiệu quả xuất khẩu gạo.

Về nhân điều còn có thể tăng kim ngạch từ 115 triệu USD năm 2000 lên tới khoảng 400 triệu USD hay cao hơn vào năm 2010 vì nhu cầu còn lớn, liên tục tăng (một số dự báo cho thấy nhu cầu sẽ tăng bình quân 7%/năm trong 10 năm tới và sẽ đạt mức 160-200.000 tấn, giá xuất khẩu cũng tăng, từ 3.799 USD/tấn năm 1994 lên 5.984 USD/tấn), vả lại tiềm năng của nước ta còn lớn. Thị trường chủ yếu là Mỹ, Eu, Ô-xtrây-lia, Trung Quốc.

Hạt tiêu xuất khẩu trên thế giới khoảng 200.000 tấn/năm, giá cả dao động lớn. Ta có khả năng mở rộng sản xuất, gia tăng sản lượng, từ đó có khả năng tăng lên thành 230-250 triệu USD so với 160 triệu USD hiện nay. Thị trường chủ yếu là Châu Âu, Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Trung Đông.

Về các loại rau, hoa và quả khác, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 182/1999/QĐ-TTg ngày 03/9/1999 phê duyệt đề án phát triển đến năm 2010, theo đó kim ngạch xuất khẩu rau, hoa và quả sẽ được đưa lên khoảng 1,2 tỷ USD với thị trường là Nhật, Nga, Trung Quốc, Châu Âu. Nếu có quy hoạch các vùng chuyên canh và đầu tư thỏa đáng vào các khâu như giống, kỹ thuật trồng và chăm sóc, công nghệ sau thu hoạch… thì thậm chí có thể thực hiện vượt mục tiêu trên, đạt kim ngạch 1,6 tỷ USD.

Về cà-phê, do sản lượng và giá cả phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết nên rất khó dự báo chuẩn xác về khối lượng và giá trị xuất khẩu trong những năm tới. FAO dự báo tới năm 2005, sản lượng thế giới sẽ khoảng 7,3 triệu tấn so với 6,3-6,6 triệu tấn hiện nay. Nếu thuận lợi, xuất khẩu có thể đạt 750 ngàn tấn vào năm 2010 với kim ngạch khoảng 850 triệu USD, đưa Việt Nam vượt qua Colombia để trở thành nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai trên thế giới. Để đạt giá trị cao, nên chú trọng phát triển cà phê chè (arabica), tự tổ chức hoặc thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực chế biến cà phê rang xay và cà phê hòa tan. Thị trường xuất khẩu chính vẫn là EU, Hoa Kỳ, Singapore và Nhật Bản. Nói chung, xuất khẩu cà phê sẽ không gặp khó khăn lớn về thị trường nhưng về giá cả sẽ khó ổn định.

Với hai mặt hàng quan trọng còn lại là cao su và chè, Chính phủ đều đã có đề án phát triển. Tuy nhiên, cần tính lại vấn đề phát triển cao su vì nhu cầu của thế giới tăng chậm, chỉ trên 2%/năm, năm 2000 khoảng 7 triệu tấn, giá cả có xu hướng xuống thấp. Dự kiến kim ngạch xuất khẩu cao su có thể đạt 500 triệu USD vào năm 2010. Nhu cầu chè trên thế giới tiếp tục tăng, hiện nay đạt mức 1,3 triệu tấn/năm; ta có tiềm năng phát triển, có thể đưa kim ngạch chè lên mức 200 triệu USD, tức là gấp 4 lần hiện nay, trong đó cần nỗ lực tăng tỷ trọng chè chất lượng cao cho các thị trường khó tính như Nhật Bản, Đài Loan, Trung Đông đi đôi với việc tăng cường hợp tác đóng gói tại Nga để đẩy mạnh tiêu thụ trên thị trường này.

Về thịt thì hiện nay sản lượng của nước ta còn rất nhỏ bé (chỉ bằng 0,7% của thế giới), chất lượng còn xa so với nhu cầu trên thị trường thế giới. Muốn gia tăng xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi thì khâu then chốt là đầu tư vào khâu nâng cao chất lượng vật nuôi phù hợp với yêu cầu của thị trường thế giới, cải thiện mạnh mẽ công nghệ chế biến, vệ sinh thực phẩm, phương tiện vận chuyển, đổi mới phương thức chăn nuôi từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn, hiện đại. Thị trường định hướng trước mắt là Hongkong, Nga, về lâu dài là Singapore và Nhật Bản.

Ngoài ra, một loạt sản phẩm còn có thể phát triển để hoặc thay thế nhập khẩu hoặc góp phần xuất khẩu như cây họ đậu, cây có dầu, tơ tằm, bông…

Đối với toàn bộ nhóm nông thủy sản cần rất chú trọng khâu cải tạo giống cây trồng vật nuôi, chế biến, bảo quản, vệ sinh thực phẩm, chuyên chở, đóng gói, phân phối để có thể đưa thẳng tới khâu tiêu dùng, từ đó nâng cao giá trị gia tăng.

Nhìn chung lại, kim ngạch của nhóm nguyên nhiên liệu và nông lâm hải sản tổng cộng sẽ đạt từ 10 đến 10,35 tỷ USD vào năm 2010, chiếm khoảng 20-21% kim ngạch xuất khẩu so với trên 40% hiện nay theo hướng gia tăng chất lượng và giá trị gia tăng. Phần còn lại phải là các mặt hàng chế biến và chế tạo. Đây là bài toán chủ yếu cho hoạt động xuất nhập khẩu trong thời gian 10 năm tới.

1.3. Sản phẩm chế biến và chế tạo:

Hiện nay kim ngạch của nhóm này đã đạt trên 4 tỷ USD, tức là trên 30% kim ngạch xuất khẩu. Mục tiêu phấn đấu vào năm 2010 là 20-21 tỷ USD, tăng hơn 5 lần so với hiện nay và chiếm khoảng 40% kim ngạch xuất khẩu.

Hạt nhân của nhóm, cho tới năm 2010, vẫn sẽ là hai mặt hàng dệt may và giầy dép, là những lĩnh vực có thể thu hút nhiều lao động. Kim ngạch của mỗi mặt hàng phải đạt khoảng 7-7,5 tỷ USD. Như vậy, dệt may sẽ phải tăng bình quân 14%/năm, giày dép tăng bình quân 15-16%/năm. Nay đã ký được Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa kỳ thì mục tiêu tăng trưởng trên là khả thi. Tuy nhiên, vẫn cần tiếp tục mở thêm thị trường Trung Đông và Đông Âu. Sau các thỏa thuận đạt được với Hoa Kỳ và EU, Trung Quốc sẽ trở thành thành viên của WTO; khả năng cạnh tranh của hàng hóa Trung Quốc, trong đó có dệt may và giày dép, vốn đã rất mạnh, sẽ được nâng lên do được hưởng những ưu đãi mới trên các thị trường rộng lớn như Hoa Kỳ và EU, gây khó khăn không nhỏ cho hàng hóa của ta.

Để khắc phục khó khăn, đẩy mạnh xuất khẩu, hướng phát triển cơ bản của hai ngành dệt may và giày dép trong 10 năm tới là gia tăng nỗ lực thâm nhập các thị trường mới, đặc biệt là thị trường Mỹ, Trung Đông và châu Đại Dương; ổn định và tăng thị phần trên các thị trường quen thuộc như EU, Nhật Bản, đặc biệt là Nhật Bản bởi đây là thị trường phi quota; chuyển dần từ hình thức gia công là chính sang nội địa hóa trên cơ sởtăng cường đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu đầu vào, tạo nhãn hiệu có uy tín; chuyển mạnh sang bán FOB; thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, nhất là đầu tư từ EU, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan… để tăng cường năng lực thâm nhập trở lại các thị trường này và đi vào các thị trường khác. Chính sách thương mại của Nhà nước, mà cụ thể là chính sách thuế, chính sách thị trường, cần hỗ trợ đắc lực cho tiến trình này.

Do mục tiêu kim ngạch của toàn nhóm chế biến, chế tạo vào năm 2010 là trên 20 tỷ USD nên ngoài dệt may và giày dép cần nỗ lực tiếp cận thị trường quốc tế, dự báo nhu cầu của người tiêu dùng để từ đó cố gắng tạo ra những ngành hàng mới.

Trước mắt, chủ yếu dựa trên cơ cấu đầu tư và thực tiễn xuất khẩu trong những năm qua cũng như thị trường quốc tế, có thể dự báo những mặt hàng như:

Thủ công mỹ nghệ: Kim ngạch hiện nay đã đạt xấp xỉ 200 triệu USD. Đây là ngành hàng mà ta còn nhiều tiềm năng, dung lượng thị trường thế giới còn lớn. Nếu có chính sách đúng đắn để khơi dậy tiềm năng thì có thể nâng kim ngạch lên 800 triệu USD vào năm 2005 và 1,5 tỷ USD vào năm 2010, trong đó hàng gốm sứ chiếm khoảng 60%. Thị trường định hướng là EU, Nhật Bản và Hoa Kỳ. Các thị trường như Trung Đông, Châu Đại dương cũng là thị trường tiềm tàng, cần nỗ lực phát triển (Bộ Thương mại đã trình Thủ tướng Chính phủ đề án riêng về mặt hàng này).

Thực phẩm chế biến: Kim ngạch hiện nay mới đạt 100 triệu USD, tập trung chủ yếu vào những mặt hàng không đòi hỏi nhiều về công nghệ như bánh kẹo, sữa, mỳ ăn liền, phở ăn liền, bột ngọt, dầu thực vật… Tiềm năng phát triển của ngành hàng này còn khá lớn bởi ở một số nước có nhu cầu, chưa kể cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài khá đông. Dự báo tới năm 2005 kim ngạch xuất khẩu có khả năng vượt 200 triệu USD và tới năm 2010 đạt 700 triệu USD với thị trường tiêu thụ chủ yếu là Nga, Đông Âu, EU, Ô-xtrây-lia và Hoa Kỳ. Trong nhóm này, cần hết sức chú trọng mặt hàng dầu thực vật bởi nước ta là nước có tiềm năng về cây có dầu (dừa, đậu nành, vừng, lạc…). Nhà nước cần quy hoạch lại các vùng trồng cây có dầu để tập trung nguồn nguyên liệu đủ dùng cho các nhà máy chế biến, hạn chế dần lượng dầu nguyên liệu nhập khẩu. Trung Quốc và Trung Đông là thị trường xuất khẩu đầy tiềm năng đối với mặt hàng này.

Sản phẩm gỗ: Với thế mạnh về nhân công và tay nghề, đây là ngành có tiềm năng phát triển ở nước ta. Ngành còn có một thuận lợi nữa là nhu cầu thế giới tăng khá ổn định (bình quân mỗi năm tăng khoảng 7-8% trong suốt thời gian từ 1994 đến 1998). Sau khi chuyển hướng sang sử dụng nguyên liệu nhập, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của ta (không kể gỗ mỹ nghệ) đang hồi phục dần. Dự kiến đến năm 2005 có thể đạt 600 triệu USD và tới năm 2010 đạt 1,2 tỷ USD. Để phát triển ngành này, cần có đầu tư thỏa đáng vào khâu trồng rừng và đơn giản hóa thủ tục trong xuất khẩu sản phẩm gỗ, nhất là sản phẩm gỗ rừng tự nhiên.

Hóa phẩm tiêu dùng: Đây là ngành hàng mới xuất hiện trong vài năm gần đây với hạt nhân là bột giặt, chất tẩy rửa, mỹ phẩm… Kim ngạch hàng năm đã đạt xấp xỉ 30 triệu USD. Thị trường tiêu thụ chính là Trung Quốc, Campuchia, I-rắc và một số nước đang phát triển. Một số lượng nhỏ đã được xuất sang các nước ASEAN và EU. Ta hoàn toàn có khả năng phát triển xuất khẩu những mặt hàng này. Mục tiêu kim ngạch vào năm 2005 là 200 triệu USD, vào năm 2010 là 600 triệu USD. Thị trường chính trong thời kỳ 2001-2005 vẫn sẽ là Trung Quốc, Campuchia, các nước ASEAN và một số nước đang phát triển; sang thời kỳ 2006-2010 cố gắng len vào các thị trường khác như EU, Nhật Bản, Nga, Hoa Kỳ.

Sản phẩm cơ khí, điện: Đây sẽ là ngành hàng hoàn toàn mới trong 10 năm tới. Mặc dù kim ngạch hiện nay mới đạt trên dưới 10 triệu USD nhưng hoàn toàn có khả năng tăng kim ngạch lên 300 triệu USD vào năm 2005 và 1 tỷ USD vào năm 2010. Nên có chính sách thu hút đầu tư nước ngoài hướng về xuất khẩu. Trong lĩnh vực này đang có những dấu hiệu khá tích cực (ví dụ, công ty Cadivi đã bắt đầu xuất khẩu cáp điện ra nước ngoài với khối lượng lớn; 14 dự án sản xuất xe đạp 100% vốn Đài Loan đã được cấp giấy phép, 16 dự án nữa đang chờ cấp giấy phép, tổng công suất khoảng 6 triệu xe/năm, xuất khẩu 80%; quạt điện, máy xay xát, động cơ… cũng đang tích cực tìm đường xuất khẩu ra nước ngoài). Thị trường định hướng đối với xe đạp là EU và Hoa Kỳ, với các sản phẩm khác là các nước ASEAN, Trung Đông và Châu Phi.

Sản phẩm nhựa: Kết quả xuất khẩu sản phẩm nhựa trong những năm gần đây là đáng khích lệ. Từ chỗ đáp ứng chủ yếu nhu cầu trong nước, nước ta đã bắt đầu xuất khẩu sang Campuchia, Lào, Trung Quốc và các nước Nam Á như n Độ, Sri Lanka. Mặt hàng chủ yếu là bạt nhựa và đồ nhựa gia dụng. Trong những năm tới, cần có đầu tư thỏa đáng vào khâu chất lượng và mẫu mã để mở rộng thị phần trên các thị trường hiện có, tăng cường thâm nhập các thị trường mới như Nhật Bản, EU và Hoa Kỳ. Về sản phẩm, bên cạnh đồ nhựa gia dụng cần chú ý phát triển nhựa công nghiệp và đồ chơi bằng nhựa. Nếu làm được những việc này, kim ngạch có thể đạt 200 triệu USD vào năm 2005 và 600 triệu USD vào năm2010.

Như vậy, bên cạnh dệt may và giày dép, trong 10 năm tới đây cần chú ý phát triển những ngành kết hợp giữa lao động giản đơn với công nghệ trung bình mà cụ thể là thủ công mỹ nghệ, thực phẩm chế biến, sản phẩm gỗ, hóa phẩm tiêu dùng, sản phẩm nhựa và sản phẩm cơ khí – điện; phấn đấu đưa kim ngạch của nhóm hàng mới này lên 4,5-5 tỷ USD hoặc hơn vào năm 2010. Có thể nói đây là khâu đột phá của xuất khẩu Việt Nam trong những năm trước mắt (2001-2005).

1.4. Nhóm hàng vật liệu xây dựng

Nước ta có nguồn nguyên liệu dồi dào để sản xuất vật liệu xây dựng không những có thể cung cấp đủ cho nhu cầu trong nước mà còn có khả năng xuất khẩu lớn.

Ngành sản xuất xi măng là ngành công nghiệp phát triển mạnh trong mấy năm gần đây, sản lượng hàng năm (± 13 triệu tấn) đã cung ứng đủ cho nhu cầu trong nước. Theo chiến lược phát triển sản xuất xi măng thì các dự án phát triển xi măng trong vài năm tới có khả năng dư thừa hàng năm khoảng từ 2-3 triệu tấn để xuất khẩu (năm 2001 có thể xuất khẩu ± 300.000 ngàn tấn). Tuy nhiên, do các nhà máy xi măng mới đầu tư, khấu hao lớn nên giá thành sản xuất còn cao, khả năng cạnh tranh yếu hơn so với xi măng các nước trong khu vực, do đó khâu then chốt với xi măng là hạ giá thành.

Ngành công nghiệp sản xuất gạch ốp lát và sứ vệ sinh trong nước tuy mới ra đời nhưng đã sớm hòa nhập vào môi trường cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực. Về mặt công nghệ các nhà máy của Việt Nam nhập công nghệ tiên tiến nên chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn ISO, hoàn toàn có khả năng cạnh tranh với hàng ngoại. Mặt khác, đây là ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, sử dụng tới 80-87% nguyên liệu (đất sét, fensfat, thạch cao, bột màu, gas…) trong nước. Sứ vệ sinh của Việt Nam đã bắt đầu có mặt trên các thị trường Nhật Bản, Nga, Myanmar, Bangladesh, Pháp, Ucraina. Đây là những mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu lớn trong tương lai.

Do có nguồn nguyên liệu cát tốt để sản xuất kính, theo kế hoạch thì từ nay đến năm 2010 ngành công nghiệp kính sẽ trở thành ngành công nghiệp vật liệu xây dựng mũi nhọn. Dự tính năm 2010 năng lực sản xuất đạt 60 triệu m2, đáp ứng đủ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Hiện nay kính của Việt Nam sản xuất đã được xuất khẩu sang Campuchia; trong tương lai cần mở rộng thêm thị trường.

1.5. Sản phẩm hàm lượng công nghệ và chất xám cao:

Đây là ngành hàng mới xuất hiện nhưng đã mang lại kim ngạch xuất khẩu khá lớn, khoảng 700 triệu USD vào năm 2000. Hạt nhân là hàng điện tử và tin học. Với xu thế phân công lao động theo chiều sâu trên thế giới hiện nay, ta hoàn toàn có khả năng phát triển hơn nữa những mặt hàng này, trước mắt là gia công rồi tiến tới nội hóa dần. Vấn đề cốt lõi là có cơ chế chính sách khuyến khích, phát triển nguồn nhân lực. Mục tiêu kim ngạch xuất khẩu đặt ra cho ngành là 2,5 tỷ USD vào năm 2005 (riêng phần mềm Bộ Khoa học – Công nghệ và môi trường dự kiến là 350 – 500 triệu USD) và 6-7 tỷ USD vào năm 2010 (riêng phần mềm là 1 tỷ USD). Về thị trường thì nhằm vào các nước công nghiệp phát triển (phần mềm) và cả các nước ĐPT (phần cứng). Cần coi đây là khâu đột phá trong 5 năm cuối của kỳ 2001-2010.

2. Cơ cấu dịch vụ xuất khẩu:

Lâu nay ở ta ít chú trọng tới xuất khẩu dịch vụ, thậm chí không có số liệu thống kê một cách có hệ thống. Tuy nhiên qua tổng hợp số liệu của các ngành, có thể sơ bộ ước tính thương mại dịch vụ hai chiều của Việt Nam năm 2000 đạt 3,2 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt 2,0 tỷ USD và nhập khẩu đạt 1,2 tỷ USD.

Các ngành dịch vụ thu ngoại tệ bao gồm nhiều lĩnh vực (theo WTO thì có tới 155 loại hình), bản này mới chỉ có thể đề cập tới các loại hình dịch vụ như du lịch, xuất khẩu lao động, vận tải hàng không, bưu chính viễn thông và dịch vụ ngân hàng.

2.1. Xuất khẩu lao động:

Trong nhiều năm qua xuất khẩu lao động là ngành thu ngoại tệ quan trọng. Bình quân giai đoạn 1996-2000, mỗi năm nước ta đưa ra nước ngoài khoảng 2 vạn lao động với thời hạn hợp đồng từ 3-5 năm, riêng năm 2000 dự kiến là 3 vạn lao động. Hiện nay số người Việt Nam đang lao động tại nước ngoài vào khoảng 9 vạn người. Với thu nhập bình quân đầu người khoảng 5.000USD/năm, ước tính kim ngạch xuất khẩu lao động năm 2000 sẽ đạt 450 triệu USD.

Theo Bộ Lao động Thương binh và Xã hội thì mục tiêu phấn đấu năm 2005 là xuất khẩu 150-200 ngàn lao động và đến năm 2010 là 1 triệu lao động. Nếu thực hiện được mục tiêu này, kim ngạch dự kiến sẽ đạt khoảng 1,5 tỷ USD vào năm 2005 và 4,5-6 tỷ USD vào năm 2010.

2.2. Du lịch:

Du lịch là một ngành dịch vụ có ý nghĩa kinh tế xã hội quan trọng. Trong những năm qua, ngành du lịch đã đạt được nhiều bước tiến đáng ghi nhận. Tuy nhiên tiềm năng của ngành còn rất lớn nếu biết khai thác và phát huy tốt những thế mạnh sẵn có. Theo Tổng cục Du lịch, dự kiến năm 2000 sẽ có khoảng 2 triệu khách du lịch quốc tế tới Việt Nam với doanh thu ngoại tệ khoảng 500 triệu USD.

Theo chiếu lược phát triển của ngành thì tới năm 2005 sẽ phấn đấu thu hút được 3 triệu khách quốc tế với doanh thu xấp xỉ 1 tỷ USD, năm 2010 thu hút 4,5 triệu khách đạt 1,6 tỷ USD.

2.3. Vận tải biển và dịch vụ cảng, giao nhận:

Kim ngạch xuất khẩu trong lĩnh vực vận tải biển năm 2000 mới chỉ đạt xấp xỉ 20 triệu USD. Hiện nay đa số các doanh nghiệp của ta lựa chọn điều kiện giao hàng là CIF hoặc C&F đối với hàng nhập khẩu và FOB đối với hàng xuất khẩu. Do vậy hàng năm ta phải chi một lượng ngoại tệ khá lớn để nhập khẩu dịch vụ vận tải của nước ngoài, đồng thời lại để tuột mất cơ hội thu ngoại tệ khi xuất khẩu. Nguyên nhân khách quan một phần là do tập quán của doanh nghiệp khi ký kết hợp đồng, nhưng nguyên nhân chính vẫn là nước ta chưa có một đội tàu đủ mạnh, hoạt động rộng trên nhiều tuyến và cước phí chưa cạnh tranh. Vì vậy trong thời gian tới cần tăng cường đầu tư phát triển hệ thống cảng biển, đi đôi với việc gia tăng đội tàu, tận dụng thế mạnh về vị trí địa lý, hạ giá thành vận chuyển để nâng cao kim ngạch xuất khẩu, giảm kim ngạch nhập khẩu tiết kiệm ngoại tệ cho đất nước. Nếu cước phí vận tải chỉ chiếm 1% trong tổng kim ngạch hàng hóa Việt Nam xuất khẩu và ngành dịch vụ vận tải nước ta đảm đương được thì kim ngạch xuất khẩu của ngành vận tải biển đã là trên dưới 250 triệu USD năm 2005 và 500 triệu USD năm 2010.

2.4. Các ngành dịch vụ khác (ngân hàng, vận tải hàng không, bưu chính viễn thông, xây dựng, y tế, giáo dục…):

Hiện nay, do các Bộ, ngành còn đang thu thập số liệu về xuất – nhập khẩu dịch vụ liên quan tới ngành mình nên Bộ Thương mại chưa tổng hợp được số liệu chính xác. Tuy nhiên, có thể sơ bộ ước tính kim ngạch xuất khẩu của nhóm này sẽ đạt xấp xỉ 1 tỷ USD năm 2000 trong đó chiếm tỷ trọng lớn là dịch vụ ngân hàng (thanh toán quốc tế, chuyển tiền, kiều hối), bưu chính viễn thông và vận tải hàng không. Dự kiến kim ngạch của nhóm này sẽ tăng khoảng 10%/năm thời kỳ 2001-2010, đạt 1,6 tỷ USD năm 2005 và 2,6 tỷ USD năm 2010.

Có thể hình dung, ngành dịch vụ phát triển nhiều nhất vào thời kỳ 2001-2010 sẽ là xuất khẩu lao động, du lịch, bưu chính viễn thông, vận tải và ngân hàng. Định hướng phát triển các ngành cụ thể được tóm tắt qua bảng dưới đây:

Ngành dịch vụ

Kim ngạch 2005 (triệu USD)

Kim ngạch 2010 (triệu USD)

– Xuất khẩu lao động

1.500

4.500

– Du lịch

1.000

1.600

– Một số ngành khác (ngân hàng, bưu chính viễn thông, vận tải…)

1.600

2.000-2.500

Tổng kim ngạch XKDV

4.100

8.100-8.600

Tóm lại, tới năm 2010, kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu được dự kiến như sau:

Nhóm hàng

Kim ngạch 2010 (triệu USD)

Tỷ trọng %

2000

2010

1. Nguyên nhiên liệu

1.750

20,1

3-3,5

2. Nông sản, hải sản

8.000-8.600

23,4

16-17

3. Chế biến, chế tạo

20.000-21.000

31,4

40-45

4. Công nghệ cao

7.000

5,4

12-14

5. Hàng khác

12.500

19,8

23-25

Tổng kim ngạch hàng hóa

48.000-50.000

100

Tổng kim ngạch dịch vụ

8.100-8.600

3. Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu:

Đối với hàng nhập khẩu thì phương châm chung là:

– Ưu tiên nhập khẩu vật tư, thiết bị và công nghệ tiên tiến phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, năng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu.

– Cố gắng sử dụng vật tư, thiết bị mà trong nước có thể sản xuất được để tiết kiệm ngoại tệ, nâng cao trình độ sản xuất.

– Hạn chế tới mức tối đa có thể được việc nhập khẩu hàng tiêu dùng.

– Tập trung vào nhập thiết bị hiện đại từ các nước có công nghệ nguồn (Mỹ, Nhật, Tây Âu); giảm nhanh tiến tới hạn chế nhập thiết bị công nghệ lạc hậu hoặc công nghệ trung gian.

Nhu cầu nhập khẩu tăng năm 2010 dự kiến như sau:

Nhóm hàng

Kim ngạch 2010 (triệu USD)

Tỷ trọng (%)

2000

2010

1. Máy móc thiết bị

18.000

27

36

2. Nguyên nhiên vật liệu

30.000

69

60

3. Hàng tiêu dùng

2.000

4

4

Tổng kim ngạch NK

50.000

100

100

Cơ cấu nhập khẩu sẽ chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng máy, thiết bị công nghiệp và công nghệ từ 27% năm 2000 lên 36% 2010, giảm tỷ trọng nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu từ 69% năm 2000 xuống 60% năm 2010, giữ nguyên tỷ trọng hàng tiêu dùng ở mức 4% như hiện nay. Khả năng này có tính hiện thực vì trong những năm tới ta sẽ giảm nhập khẩu xăng dầu, một số đồ dùng lâu bền, phân bón và các loại vật liệu xây dựng…, hàng tiêu dùng nhập khẩu đang được thay thế dần bằng hàng sản xuất trong nước, nhất là vào những năm cuối thời kỳ 2001-2010.

Nước ta còn đang trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, trình độ phát triển kinh tế còn thấp, do đó chưa thể xóa bỏ được tình trạng nhập siêu. Mức nhập siêu cao hay thấp còn tùy thuộc kết quả thực hiện các chính sách đẩy mạnh xuất khẩu và sử dụng hợp lý các nguồn vốn nhập khẩu. Đồng thời, cần tính tới nhân tố khi mở cửa thị trường theo cam kết quốc tế, hàng rào quan thuế và phi quan thuế sẽ giảm dần do đó hàng nước ngoài sẽ dễ xâm nhập thị trường nước ta hơn. Do đó ta cần ra sức nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nội địa, chủ động đi vào thị trường nước khác, đổi mới cơ bản phương thức quản lý nhập khẩu. Phương án khả thi là kiềm chế nhập khẩu, giảm dần tỷ lệ nhập siêu, khống chế nhập siêu hàng năm ở mức không quá 10% kim ngạch xuất khẩu, tiến tới cân bằng xuất nhập và xuất siêu vào cuối thời kỳ của chiến lược 2001-2010.

Về thị trường nhập khẩu cần chuyển dịch theo hướng giảm thiểu tỷ trọng của thị trường ASEAN nói riêng, Châu Á nói chung xuống còn khoảng 55% (hiện nay ASEAN đang chiếm tới 30% kim ngạch xuất khẩu của ta, riêng Singapore là 17-18%, toàn Châu Á chiếm xấp xỉ 80%). Tỷ trọng của các thị trường cung ứng công nghệ nguồn như Nhật, EU, Bắc Mỹ hiện rất thấp (Nhật khoảng 12%, EU khoảng 10%, Bắc Mỹ chưa đầy 4%), do đó cần nâng dần tỷ trọng của Nhật, EU và Bắc Mỹ lên trên 30% vào năm 2005 và 40% vào năm 2010.

Cần chủ động thay đổi về căn bản phương thức quản lý nhập khẩu theo hướng tăng cường sử dụng các công cụ phi thuế “hợp lệ” như các hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, môi trường…, hạn ngạch thuế quan, thuế tuyệt đối, thuế mùa vụ, thuế chống phá giá, chống trợ cấp, công bố lộ trình rõ ràng cho việc dỡ bỏ hàng rào bảo hộ, khắc phục triệt để những bất hợp lý trong chính sách bảo hộ, cân đối lại đối tượng bảo hộ theo hướng trước hết chú trọng bảo hộ nông sản. Giảm dần tỷ trọng của thuế nhập khẩu trong cơ cấu nguồn thu ngân sách. Cải cách biểu thuế và cải cách công tác thu thuế để giảm dần, tiến tới xóa bỏ chế độ tính thuế theo giá tối thiểu và tích cực xúc tiến việc xếp sắp lại các doanh nghiệp, đổi mới công nghệ, phương thức quản lý để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của từng ngành hàng.

4. Cơ cấu dịch vụ nhập khẩu

Các ngành dịch vụ mà ta phải chi trả ngoại tệ chủ yếu là dịch vụ tài chính (bảo hiểm, kiểm toán…), ngân hàng (thanh toán, chuyển tiền…), bưu chính viễn thông, vận tải (hàng không, đường thủy), thuê chuyên gia nước ngoài, du lịch, du học…. Tổng giá trị nhập khẩu dịch vụ năm 2000 ước tính vào khoảng 1,2 tỷ USD. Dự kiến nhập khẩu dịch vụ tăng khoảng 10,5% trong thời kỳ 2001-2010, đạt giá trị 2,02 tỷ USD năm 2005 và 3,4 tỷ USD năm 2010.

Tuy nhiên, trong việc hoạch định chiến lược xuất nhập khẩu dịch vụ thời kỳ 2001-2010 cần tính tới yếu tố hội nhập quốc tế trong đó có hội nhập về dịch vụ. Nếu Việt Nam gia nhập WTO trong giai đoạn này thì lĩnh vực dịch vụ cũng sẽ phải từng bước mở cửa theo những nguyên tắc của Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS), tạo điều kiện cho các nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài mở rộng hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Điều này chắc chắn đặt các ngành dịch vụ của nước ta trước sự cạnh tranh gay gắt và sẽ ảnh hưởng mạnh tới kim ngạch nhập khẩu dịch vụ của ta.

C. VỀ THỊ TRƯỜNG XUẤT – NHẬP KHẨU

Một trong những khâu then chốt của Chiến lược phát triển xuất – nhập khẩu đến năm 2010 là mở rộng và đa dạng hoá thị trường. Quan điểm chủ đạo là:

– Tích cực, chủ động tranh thủ mở rộng thị trường, nhất là sau khi tham gia WTO;

– Đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ với các đối tác, phòng ngừa chấn động đột ngột;

– Mở rộng tối đa về diện song trọng điểm là các thị trường có sức mua lớn, tiếp cận các thị trường cung ứng công nghệ nguồn;

– Tìm kiếm các thị trường mới ở Mỹ La-tinh, Châu Phi.

Xuất phát từ các phương châm chung nói trên, có thể tính đến vị trí của các thị trường như sau:

1. Khu vực Châu Á– Thái Bình Dương:

Tiếp tục coi trọng khu vực vày trong 10 năm tới vì ở gần ta, có dung lượng lớn, phát triển tương đối năng động. Thị trường trọng điểm tại khu vực này sẽ là các nước ASEAN, Trung Quốc (cả Hồng Công), Nhật Bản, Đài Loan và Hàn quốc.

ASEAN là một thị trường khá lớn, với khoảng 500 triệu dân, ở sát nước ta và ta là một thành viên, tuy trước mắt gặp khó khăn tạm thời song tiềm năng phát triển còn lớn, lâu nay chiếm khoảng trên dưới 1/3 kim ngạch buôn bán của nước ta, sắp tới, khi AFTA hình thành ta càng có thêm điều kiện xuất khẩu và thị trường này. Mặt khác, ASEAN có nhiều mặt hàng giống ta, đều hướng ra các thị trường khác là chính chứ chưa phải là buônbán trong khu vực là chính, trong những năm tới, khả năng xuất gạo, dầu thô cho khu vực này sẽ giảm, trong khi đó với việc áp dụng biểu thuế AFTA, hàng của ASEAN có điều kiện thuận lợi hơn trong việc đi vào thị trường ta, do đó càng phải ra sức phấn đấu gia tăng khả năng cạnh tranh để đi vào thị trường ASEAN, cải thiện cán cân thương mại.

Các doanh nghiệp của ta cần tích cực, chủ động tận dụng thuận lợi do cơ chế AFTA mở ra để gia tăng xuất khẩu sang các thị trường này từ đó tăng kim ngạch nhưng giảm về tỷ trọng, hạn chế nhập siêu. Ngoài ra, cần khai thác tốt thị trường Lào và Campuchia.

Mặt hàng trọng tâm cần được đẩy mạnh xuất khẩu sẽ là gạo, linh kiện vi tính, một vài sản phẩm cơ khí (đối với các nước ngoài Đông Dương) và hoá phẩm tiêu dùng, thực phẩm chế biến, sản phẩm nhựa, hàng bách hoá (đối với Lào và Campuchia). Về nhập khẩu, mặt hàng chủ yếu từ thị trường này sẽ là nguyên liệu sản xuất dầu thực vật, phân bón, linh kiện vi tính – cơ khí – điện tử, xăng dầu, sắt thép, tân dược và một số chủng loại máy móc, thiết bị, phụ tùng.

Trung Quốc là một thị trường lớn, lại ở sát nước ta đồng thời lại là một nước có khả năng cạnh tranh cao không những trên thị trường thế giới mà còn ngay trên thị trường nước ta. Với ý nghĩa đó ta cần tích cực, chủ động hơn trong việc thúc đẩy buôn bán với Trung Quốc mà hướng chính là các tỉnh Hoa Nam và Tây Nam Trung Quốc, phấn đấu đưa kim ngạch lên khoảng 3-4 tỷ USD. Một trong những phương cách là tranh thủ thoả thuận ở cấp Chính phủ về trao đổi một số mặt hàng với số lượng lớn, trên cơ sở ổn định, thúc đẩy buôn bán chính ngạch. Bên cạnh đó cần coi trọng buôn bán biên mậu, tận dụng phươngthức này để gia tăng xuất khẩu trên cơ sở hình thành sự điều hành tập trung và nhịp nhàng. Đồng thời, cần chú trọng thị trường Hồng Công- một thị trường tiêu thụ lớn và vốn là một khâu trung chuyển quan trọng nhưng gần đây có xu hướng thuyên giảm trong buôn bán với ta.

Mặt hàng chủ yếu đi vào hai thị trường này sẽ là hải sản, cao su, rau hoa quả, thực phẩm chế biến và hoá phẩm tiêu dùng. Hàng nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc sẽ là hoá chất, thuốc trừ sâu, một số chủng loại phân bón, chất dẻo nguyên liệu, bông, sắt thép, máy móc, thiết bị và phụ tùng.

Tỷ trọng xuất khẩu vào Nhật Bản phải được cải thiện. Ta và Nhật cần có sự trao đổi, bàn bạc để đi đến ký kết thoả thuận về việc Nhật Bản dành cho hàng hoá của VIệt Nam qui chế MFN đầy đủ. Các doanh nghiệp cần tăng cường tìm hiểu các thông tin có liên quan đến phương thức phân phối, thủ tục xin dấu chứng nhận chất lượng JIS, JAS và Ecomark cũng như chế độ xác nhận trước về thực phẩm nhập khẩu của Nhật. Đây là việc hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với đẩy mạnh xuất khẩu nông sản và thực phẩm, mặt hàng mà ta có thế mạnh. Ngoài ra, cần hết sức quan tâm đến thu hút vốn đầu tư từ Nhật Bản.

Trong những năm tới mặt hàng chủ lực xuất khẩu sang Nhật Bản sẽ là: hải sản, hàng dệt may, giày dép và sản phẩm da, than đá cao su, cà phê, rau quả, thực phẩm chế biến, chè, đồ gốm sứ và sản phẩm gỗ. Mặt hàng chủ yếu nhập khẩu sẽ là máy móc, thiết bị công nghệ cao, chất dẻo nguyên liệu, linh kiện điện tử tin học cơ khí, thuốc trừ sâu và nguyên liệu, sắt thép, nguyên phụ liệu dệt- may – da.

Hàn Quốc là thị trường nhập khẩu lớn trong khu vực. Tuy nhiên,ta vẫn nhập siêu lớn, hàng xuất của ta vẫn chưa có chỗ đứng vững chắc trên thị trường này. Trong thời gian tới,để đẩy mạnh xuất khẩu sang Hàn Quốc, cần kiên trì thuyết phục bạn mở cửa thị trường. Cần chú trọng tới một nhân tố mới là Nam – Bắc Triều Tiên cải thiện quan hệ, Hàn Quốc sẽ quan tâm nhiều hơn tới Bắc Triều Tiênnhưng mặt khác tình hình Bắc Triều Tiên được cải thiện cũng mở ra khả năng gia tăng buôn bán với Bắc Triều Tiên mà cho tới nay hầu như không có.

Mục tiêu đặt ra là duy trì và đẩy mạnh kinh ngạch xuất khẩu dệt may,hải sản, giày dép, cà phê, rau quả, than đá, dược liệu, cố len vào thị trường nông sản. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ thị trường này có thể là máy móc, thiết bị, phụ tùng, phương tiện vận tải, chất dẻo nguyên liệu, linh kiện điện tử – tin học – cơ khí, phân bón, sắt thép, tân dược và nguyên phụ liệu dệt – may – da.

Đài Loan là bạn hàng xuất khẩu quan trọng. Quan hệ thương mại trong những năm tới có thể thêm một số thuận lợi. Mục tiêu chủ yếu trong thời gian tới là đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng như sản phẩm gỗ, hải sản,cao su, dệt may, giày dép, rau quả và chè. Sau năm 2000 có thể có thêm các sản phẩm như cơ khí và điện gia dụng do cơ sở có vốn đầu tư của Đài Loan sản xuất tại Việt Nam có thể tăng phù hợp với xu thế dịch chuyển sản xuất như đã nêu ở trên. Hàng nhập từ Đài Loan có thể là linh kiện điện tử – vi tính – cơ khí, máy móc, thiết bị, phụ tùng, nguyên phụ liệu dệt may – da, sắt thép.

2. Khu vực Châu Âu

Chiến lược thâm nhập và mở rộng thị phần tại Châu Âu được xác định trên cơ sở chia Châu Âu thành 2 khu vực cơ bản: Tây Âu và Đông Âu.

Tại Tây Âu, trọng tâm sẽ là EU mà chủ yếu là các thị trường lớn như Đức, Anh, Pháp và Italia. Kim ngạch xuất khẩu sang EU tăng rất nhanh trong thời kỳ 1991 – 1999. Trong các quốc gia EU, Đức là bạn hàng quan trọng thứ 4 của Việt Nam, Anh là nước thứ 9, pháp và Hà Lan đứng thứ 12 và 13. Hàng hoá xuất sang EU chủ yếu là giầy dép, dệt may, cà phê, hải sản, cao su, than đá, điều nhân và rau quả. Để phát triển hơn nữa xuất khẩu sang EU, đòi hỏi cao về chất lượng và luật lệ phức tạp ở EU, cần tăng cường thu thập và phổ biến thông tin cho các doanh nghiệp; chú trọng nâng cao chất lượng hàng hoá,nhất là hải sản và thực phẩm chế biến; tranh thủ việc EU coi Việt Nam là “nước có nền kinh tế thị trường” để bảo đảm cho hàng hóa Việt Nam được đối xử bình đẳng với hàng hoá các nước khác khi EU điều tra và thi hành các biện pháp chống bán phá giá; tranh thủ EU nâng mức chuyển hạn ngạch giữa các nước ASEAN, chuẩn bị điều kiện gia tăng cạnh tranh trong việc thâm nhập thị trường này sau khi bỏ hạn ngạch vào năm 2005.

Nhìn chung, nhiều mặt hàng có thể tăng xuất khẩu vào EU nhưng trọng tâm vẫn sẽ là dệt may, giày dép, hải sản, rau hoa quả, cao su, sản phẩm nhựa, sản phẩm gỗ, và sản phẩm cơ khí. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ thị trường này sẽ là máy móc, thiết bị công nghệ cao, máy chế biến thực phẩm, phương tiện vận tải, máy bay, hoá chất, tân dược, nguyên phụ liệu dệt – may- da.

Quan hệ thương mại với các nước Đông Âu và SNG, nhất là liên bang Nga có thể và cần được khôi phục bởi đây là thị trường có nhiều tiềm năng. Ta cần thay đổi nhận thức về việc họ “dễ tính”,người tiêu dùng ở đây đã được tiếp cận với hàng hoá nhiều nước có chấtlượng cao hơn hàng hoá của ta; nhiều nước, trong đó có Trung Quốc, xâm nhập mạnh mẽ vào khu vực này, đồng thời các nước này đều có khó khăn về khả năng thanh toán.

Toàn bộ tình hình đòi hỏi ta phải coi họ như những thị trường nhiều tiềm năng nhưng cũng yêu cầu hàng hoá có sức cạnh tranh cao,đều vận hành theo cơ chế thị trường với một số đặc thù của giai đoạn chuyển đổi. Theo hướng đó, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp thâm nhập thị trường này. Quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu cần được ra đời sớm để bảo lãnh tín dụng xuất khẩu cho người xuất khẩu hàng hoá vào Nga và Đông Âu theo phương thức “Nhà nước doanh nghiệp cùng làm”, xây dựng một số trung tâm tiêu thụ hàng hoá, hỗ trợ tận dụng cộng đồng người Việt để đưa hàng vào Nga và Đông Âu, tạo một số cơ sở sản xuất tại chỗ…

Trọng tâm về hàng hoá xuất khẩu sẽ là cao su, chè, thực phẩm chế biến, rau quả, hoá phẩm tiêu dùng, dệt may, giày dép và thủ công mỹ nghệ. Hàng nhập khẩu chủ yếu sẽ là thiết bị năng lượng, thiết bị mỏ, hàng quốc phòng, phân bón, sắt thép, phương tiện vận tải, lúa mỳ và tân dược.

3. Khu vực Bắc Mỹ:

Trọng tâm tại khu vực này là thị trường Hoa Kỳ. Đây là nước nhập khẩu lớn hàng đầu thế giới (mỗi năm nhập khẩu tới trên 1000 tỷ USD hàng hoá) với nhu cầu rất đa dạng, nắm những đỉnh cao về khoa học – công nghệ, công nghệ nguồn. Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ được ký kết và phê chuẩn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá của ta, đồng thời thúc đẩy các nước đầu tư vào VIệt Nam để xuất sang Hoa Kỳ.

Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu vào Hoa Kỳ sẽ là dệt may, giày dép, sản phẩm nhựa, sản phẩm cơ khí – điện, sản phẩm gỗ, thủ công mỹ nghệ, hải sản, cà phê, hạt tiêu, nhân điều, chè, gia vị, rau quả và thực phẩm chế biến. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là máy móc, thiết bị công nghệ cao, phần mềm, máy bay, phương tiện vận tải, hoá chất, tân dược, sản phẩm cao su, chất dẻo nguyên liệu, lúa mỳ và nguyên liệu sản xuất thức ăn gia súc.

Các ngành hàng trên, nhất là chế biến gỗ, chế biến thực phẩm, sản xuất đồ nhựa cần bắt tay ngay vào việc nghiên cứu thị trường HoaKỳ để thâm nhập và đẩy mạnh xuất khẩu. Riêng một số ngành như dệt may, giày dép, chế biến hải sản đã dành sự quan tâm khá thích đáng trong việcnghiên cứu thị trường Mỹ từ trước khi ký kết Hiệp định nên hầu như đã ở thế sẵn sàng để xuất phát.

4. Châu Đại dương:

Trọng tâm tại khu vực châu Đại dương là Australia và Newzealand. Quan hệ thương mại với hai thị trường này phát triển tốt trong những năm gần đây chứng tỏ tiềm năng không nhỏ nhưng mức khai thác vẫn còn thấp. Do đó, cần kiên trì tìm kiếm, tạo lập và củng cố quan hệ bạn hàng. Hàng hoá đi vào khu vực này chủ yếu sẽ là dầu thô, dệt may, giày dép thủ công mỹ nghệ, sản phẩm nhựa, sản phẩm gỗ và sản phẩm cơ khí điện. Hàng nhập khẩu chủ yếu sẽ là máy móc, thiết bị, sắt thép, lúa mỳ, bột mỳ, sữa nguyên liệu và tân dược.

5. Trung Cận Đông, Nam Á, Châu Phi và Mỹ La-tinh:

Hàng hoá của Việt Nam hiện đã xuất hiện trên các thị trường này nhưng chủ yếu là qua thương nhân nước thứ ba; kim ngạch do ta xuất trực tiếp còn khá nhỏ bé. Một điểm cần lưu ý là toàn bộ các nước trong khu vực, kể cả những nước đã từng phát triển theo đường lối kế hoạch hóa tập trung, đều đã áp dụng cơ chế thị trường và hiện đang có sự gắn kết với nhau thông qua việc hình thành các liên kết kinh tế khu vực như khối liên minh quan thuế Nam Châu Phi, khối các nước sử dụng đồng Franc ở Tây Phi, khối Maghreb tại Bắc Phi, khối các nước vùng Vịnh, Hiệp hội SAFTA… Thương mại giữa các nước trong khối được áp dụng những ưu đãi đặc biệt. Vì lý do đó, trong chiến lược thâm nhập thị trường, cần chọn thị trường trọng điểm cho từng khối và lấy đó làm bàn đạp để tiến vào các nước trong khối.

Tóm lại, trong thời gian tới, bên cạnh việc tiếp tục củng cố và tăng cường chỗ đứng tại các thị trường đã có thì khâu đột phá có thể là gia tăng sự có mặt tại thị trường Trung Quốc, Nga, mở ra thị trường Mỹ, châu Phi và trong chừng mực nào đó là thị trường Mỹ La-tinh.

PHẦN THỨ BA
HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH VÀ BIỆN PHÁP HỖ TRỢ ĐỂ
THỰC HIỆN ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN
XUẤT – NHẬP KHẨU THỜI KỲ 2001-2010

Để đạt các mục tiêu và chỉ tiêu nêu trên cần thực hiện đồng bộ hệ thống các chính sách, biện pháp, trong đó có thể có hai khâu then chốt:

Một là, có chính sách đầu tư thỏa đáng không chỉ nhằm gia tăng sản lượng mà cần chú trọng nâng cao năng suất, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm (và cả dịch vụ) xuất khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và hàng hóa – dịch vụ Việt Nam.

Hai là, trên cơ sở kiên trì chính sách mở cửa, chủ động hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, mở rộng và đa dạng hóa thị trường.

Từ nhận thức như vậy, Bộ Thương mại đề xuất các chính sách và biện pháp phát triển xuất – nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ như sau:

I. CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ VÀ CHUYỂN ĐỔI CƠ CẤU
HÀNG HÓA – DỊCH VỤ:

1. Về hàng hóa:

Để đạt được những mục tiêu đề ra trong phần chính sách hàng hóa, một khâu có ý nghĩa quyết định là chính sách đầu tư. Phù hợp với đòi hỏi của tình hình, chính sách đầu tư nên được thực hiện theo các hướng sau:

1.1. Cần dành ưu tiên cao cho các ngành sản xuất hàng xuất khẩu, còn đối với các ngành thay thế nhập khẩu mà năng lực sản xuất trong nước đã đáp ứng nhu cầu thì không nên tăng thêm đầu tư, kể cả đầu tư nước ngoài.Trong đầu tư nên tập trung vào các ngành hàng chủ lực và các dự án nâng cao cấp độ chế biến, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa. Theo hướng đó, đối với các dự án đầu tư chỉ nhằm mở rộng quy mô (có nghĩa là chỉ dẫn đến thay đổi về lượng mà không dẫn đến thay đổi về chất) thì ưu đãi ít; đối với các dự án đổi mới công nghệ, nâng cao được cấp độ chế biến hàng hóa thì, tùy theo mức độ, được ưu đãi nhiều hơn. Có chính sách ưu đãi, đặc biệt là về thuế, để thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng ngày càng nhiều sản phẩm trong nước, nâng cao hàm lượng nội địa của sản phẩm.

Nên tính tới việc thành lập Ngân hàng Dữ liệu Công nghệ Quốc gia để cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp; tạo lập thị trường công nghệ để các sản phẩm khoa học – công nghệ được trả giá đúng mức và lưu thông bình thường như một dạng hàng hóa đặc biệt; khuyến khích việc ký hợp đồng giữa các doanh nghiệp với các cơ sở nghiên cứu khoa học; thi hành nghiêm túc các quy định của luật pháp về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; áp dụng chế độ đăng ký và kiểm tra chất lượng bắt buộc đối với một số mặt hàng xuất khẩu để thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm hơn nữa đến vấn đề công nghệ, đặc biệt là công nghệ sạch.

1.2. Đối với nông sản, chú trọng việc đầu tư đổi mới giống cây trồng, công nghệ từ đó nâng cao chất lượng, hiêu quả và sức cạnh tranh, phù hợp với nhu cầu trên thị trường đi đôi với việc chú trọng đầu tư vào khâu sau thu hoạch mà hiện nay còn rất hạn chế (Bộ Nông nghiệp và PTNT đã trình Chính phủ đề án về mặt này).

1.3. Nhà nước đặc biệt quan tâm đầu tư trực tiếp cho hoạt động xuất khẩu như các cảng, kho tàng, kể cả kho ngoại quan, các trung tâm thương mại ở nước ngoài, các hoạt động xúc tiến thương mại (tham gia triển lãm, hội chợ, cử đoàn đi nước ngoài tìm hiểu thị trường, tìm kiếm đối tác, thu thập và cung cấp thông tin, hướng dẫn cho các doanh nghiệp về luật lệ, tiêu chuẩn, mẫu mã thị trường đòi hỏi…); đặc biệt cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có khả năng về tài chính, nhân lực và thông tin; chú trọng đầu tư đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là cán bộ quản lý.

1.4. Do FDI góp phần đáng kể cho xuất khẩu nên cần hết sức chú trọng cải thiện môi trường đầu tư một cách đồng bộ để tăng sức hấp dẫn đối với cả đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp của nước ngoài, nhất là trong lĩnh vực sản xuất để xuất khẩu. Tích cực, chủ động điều chỉnh Luật Đầu tư nước ngoài theo quy định của WTO về TRIMS, giảm dần, tiến tới xóa bỏ sự phân biệt về chính sách giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Duy trìmôi trường đầu tư ổn định để tạo tâm lý tin tưởng cho các nhà đầu tư. Phát triển hợp lý các khu chế xuất, khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài gia tăng xuất khẩu. Mở rộng thị trường để lôi kéo các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư ở nước ta, xuất sang các thị trường có dung lượng lớn.

1.5. Nguồn đầu tưnên được xác định là: Nhà nước tập trung cho những khâu đòi hỏi vốn lớn, có tác dụng cho nhiều doanh nghiệp như nghiên cứu khoa học, xây dựng hạ tầng, kho bãi, bến cảng, thành lập các trung tâm thương mại và kho ngoại quan ở nước ngoài… Trong các khâu còn lại, Nhà nước chỉ ban hành các chính sách ưu đãi để khuyến khích cá nhân và doanh nghiệp chủ động đầu tư sản xuất, kinh doanh, hạn chế tới mức thấp nhất, nhanh chóng tiến tới xóa bỏ hoàn toàn cơ chế “xin – cho”, bao cấp trực tiếp hoặc gián tiếp.

2. Về dịch vụ:

Để đạt mục tiêu tăng trưởng bình quân 15% trong thời kỳ 2001-2010, đưa kim ngạch xuất khẩu dịch vụ lên 8,1 tỷ USD vào năm 2010 và đồng thời xuất siêu 4,7 tỷ USD về dịch vụ, cầu tập trung mọi nguồn lực nâng cao sức cạnh tranh của mọi ngành dịch vụ, tận dụng cơ hội cũng như đối phó với những thách thức do hội nhập quốc tế đem lại. Do tính chất đa ngành trong lĩnh vực dịch vụ nên mỗi ngành đều cần có hệ thống chính sách, giải pháp riêng để thực hiện mục tiêu của mình. Nhìn chung, các giải pháp lớn để phát triển xuất khẩu dịch vụ có thể là:

2.1. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng:

Sức cạnh tranh của nhiều ngành dịch vụ như bưu chính viễn thông, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch… phụ thuộc nhiều vào điều kiện cơ sở hạ tầng và trình độ công nghệ. Vì vậy cần tiếp tục có chính sách tự mình hoặc thu hút đầu tư nước ngoài phát triển cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật như đường xá, hệ thống sân bay, cảng biển, công nghệ viễn thông, hệ thống khách sạn và khu du lịch… đủ tiêu chuẩn quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế nói chung và dịch vụ nói riêng.

2.2. Chuyên nghiệp hóa, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của dịch vụ:

Dịch vụ ngày càng phát triển nhanh chóng cả chiều rộng lẫn chiều sâu và rất đa dạng. Bên cạnh đó, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những thách thức mới, môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn do sự xuất hiện của nhiều nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài; các hình thức bảo hộ đối với nhiều ngành dịch vụ sẽ phải giảm dần theo các nguyên tắc mở cửa thị trường và đối xử quốc gia (NT) của Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS). Vì vậy, mỗi ngành dịch vụ đều phải phấn đấu chuyên nghiệp hoá phương thức kinh doanh, nâng cao chất lượng dịch vụ theo tiêu chuẩn quốc tế để có thể phát triển trong quá trình hội nhập.

2.3. Mở rộng các loại hình dịch vụ xuất khẩu, phương thức xuất khẩu và thị trường xuất khẩu:

Ngoài việc phát triển các loại hình xuất khẩu dịch vụ hiện có, trong thời gian tới cần chú trọng thêm những ngành còn nhiều triềm năng như y tế, giáo dục, xây dựng, kiểm toán, bảo hiểm… Trong lĩnh vực vận tải và giao nhận cần tận dụng thế mạnh về vị trí địa lý của nước ta nằm ở ngã ba đường vận tải quốc tế để phát triển các dịch vụ tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu, chuyển tải, quá cảnh…. Ngoài ra, cần đa dạng hoá các phương thức kinh doanh và mở rộng thị trường xuất khẩu để tạo điều kiện nâng cao giá trị xuất khẩu. Đồng thời, chuẩn bị kỹ lưỡng phương án cam kết về dịch vụ, nhất là trong khuôn khổ đàm pháp gia nhập WTO để trên cơ sở đó hoạch định và từng bước hoàn thiện môi trường pháp lý, cơ chế chính sách trong lĩnh vực dịch vụ.

II. CÁC GIẢI PHÁP VỀ THỊ TRƯỜNG:

Để chủ động thâm nhập thị trường quốc tế, duy trì và mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, khai thác thêm các thị trường mới, bảo đảm cơ cấu thị trường hợp lý theo nguyên tắc đa phương hoá các đối tác, cần đổi mới công tác thị trường ở tầm vĩ mô và vi mô theo các hướng sau:

1. Phát triển mạnh công tác thị trường ở cả tầm vĩ mô và vi mô, khắc phục đồng thời hai biểu hiện “ỷ lại vào Nhà nước” và “phó mặc cho doanh nghiệp”. Đẩy mạnh đàm phán thương mại song phương và đa phương để tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp, cụ thể là đàm phán mở cửa thị trường mới, đàm phán để tiến tới thương mại cân bằng với những thị trường mà ta thường xuyên nhập siêu, đàm phán để thống nhất hoá các tiêu chuẩn vệ sinh, tiêu chuẩn kỹ thuật và đàm phán để nới lỏng các hàng rào phi quan thuế. Công tác thị trường xuất khẩu và thị trường nhập khẩu được gắn kết chặt chẽ với nhau để vừa tăng cường sức mạnh trong đàm phán quốc tế, vừa góp phần chuyển dần nhập khẩu của các doanh nghiệp từ thị trường nhập siêu (châu Á) sang thị trường xuất siêu (Bắc Mỹ và Tây Âu).

2. Tăng cường mạnh mẽ công tác thông tin về các thị trường: từ tình hình chung cho tới các cơ chế chính sách của các nước, dự báo các chiều hướng cung- cầu hàng hoá và dịch vụ…

3. Chú trọng thu hút đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia và của các nhà sản xuất “chìa khoá trao tay” (đặc biệt là trong lĩnh vực điện tử và công nghệ thông tin) đề vừa bảo đảm thị trường xuất khẩu thông qua hệ thống phân phối toàn cầu, vừa góp phần chuẩn bị tiền đề cho thời kỳ sau là thời kỳ đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng chất xám và hàm lượng công nghệ cao.

4. Tăng cường các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trên thị trường ngoài, nhất là đầu tư trong khâu hoàn thiện nông sản, thực phẩm (thí dụ như chế biến và đóng gói chè, mỳ ăn liền…) để tránh các hàng rào thuế và phi thuế do nước nhập khẩu đặt ra. Xoá bỏ thủ tục cấp phép thành lập văn phòng đại diện tại nước ngoài và đơn giản hoá thủ tục mở tài khoản để phục vụ giao dịch trên thị trường ngoài.

5. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, xúc tiến xuất khẩu, tăng cường công tác thu thập và phổ biến thông tin cũng như công tác dự báo để định hướng cho hoạt động sản xuất, xuất khẩu. Nghiên cứu thành lập Quỹ xúc tiến thương mại có sự đóng góp của các doanh nghiệp để tiến hành hỗ trợ doanh nghiệp trong các hoạt động hội chợ, trưng bày, triển lãm… Tăng cường nghiên cứu các chương trình xuất khẩu trọng điểm để đẩy mạnh tiểu thụ nông sản hàng hoá cho dân, từ điều tra, quy hoạch đến tổ chức sản xuất, tổ chức tiêu thụ. Có chế độ khuyến khích thoả đáng (như miễn giảm thuế thu nhập cá nhân, cho phép tính vào chi phí khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp…) đối với các tổ chức và cá nhân, bao gồm cả các cơ quan đại diện ngoại giao, ngoại thương của ta ở nước ngoài tham gia các hoạt động môi giới, trợ giúp tiếp cận và thâm nhập thị trường quốc tế…

6. Đối với những mặt hàng mà ta giữ thị phần lớn trên thị trường quốc tế (như gạo, cà phê, hạt tiêu…), tăng cường áp dụng các biện pháp như thông tin chiến lược, chiến thuật, kiềm chế tốc độ bán ra, tham gia các kế hoạch quốc tế về điều tiết nguồn cung trong điều kiện có thể… để tác động vào thị trường và giá cả theo hướng có lợi cho ta.

7. tầm vĩ mô, các doanh nghiệp có trách nhiệm dựa vào khung pháp lý và các chính sách khuyến khích của Nhà nước để tổ chức tiếp cận và phân tích, khai thác các thông tin; trực tiếp và thường xuyên tiếp xúc với thị trường thế giới thông qua hội thảo khoa học, hội chợ triển lãm; đẩy mạnh tiếp thị để kịp thời nắm bắt xu thế thị trường, bám sát các thay đổi trong sản xuất và kinh doanh; tự mình chủ động lo tìm bạn hàng, thị trường, tựmình lo tổ chức sản xuất và xuất khẩu theo nhu cầu và thị hiếu của thị trường, tránh tư tưởng ỷ lại vào các cơ quan quản lý Nhà nước hoặc trông chờ trợ cấp, trợ giá; đặc biệt chú trọng giữ “chữ tín” trong kinh doanh để duy trì chỗ đứng trên thị trường; phối hợp với nhau trong việc đi tìm và quan hệ với bạn hàng.

III. HOÀN THIỆN MÔI TRƯỜNG PHÁP LÝ VÀ ĐỔI MỚI,
HOÀN THIỆN CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH XUẤT – NHẬP KHẨU:

Để tạo điều kiện cho việc thực hiện thành công những nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian từ này đến năm 2010, cần hoàn thiện môi trường pháp lý, đồng thời tiếp tục đổi mới, bổ xung và hoàn thiện cơ chế chính sách xuất- nhập khẩu cho phù hợp với điều kiện thực tế theo hướng:

1. Rà soát lại hệ thống luật để điều chỉnh các quy định không còn phù hợp hoặc chưa được rõ, trước hết là Luật Thương mại, Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích Đầu tư trong nước. Về Luật Thương mại, cần mở rộng phạm vi điều chỉnh cho phù hợp với các quy định của WTO. Về Luật Đầu tư nước ngoài, cần đưa thêm các quy định để bảo đảm nguyên tắc đối xử quốc gia (National Treatment) trong các lĩnh vực như các biện pháp về đầu tư có liên quan đến thương mại (TRIMS), dịch vụ. Về Luật Khuyến khích Đầu tư trong nước, cần quy định lại rõ hơn về ngành nghề khuyến khích đầu tư để khắc phục tình trạng không rõ ràng giữa “thay thế nhập khẩu” và “định hướng xuất khẩu”. Có lộ trình thống nhất 2 luật đầu tư này thành 1 bộ luật chung về khuyến khích đầu tư.

2. Ban hành các văn bản luật mới để điều chỉnh các quan hệ kinh tế mới phát sinh trên phương diện quốc tế và quốc gia như văn bản pháp luật về Tối huệ quốc (MFN) và Đối xử quốc gia (NT), Luật Cạnh tranh và Chống độc quyền, Luật Chống bán phá giá và Chống trợ cấp, Luật Phòng vệ Khẩn cấp, Luật Chống chuyển giá (transfer pricing) – một chính sách rất quan trọng đối với việc thu hút có hiệu quả nguồn vốn đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia.

Điều chỉnh hoặc ban hành mới các quy định dưới luật để xử lý linh hoạt các mảng kinh doanh đang ngày càng trở nên quan trọng nhưng chưa đủ khung pháp lý như các lĩnh vực dịch vụ, xuất khẩu tại chỗ (bán hàng thu ngoài tệ mạnh, bán hàng miễn thuế, giao hàng xuất khẩu trên lãnh thổ Việt Nam để tiếp tục sản xuất thành sản phẩm xuất khẩu…), buôn bán biên giới và buôn bán duyên hải, kinh doanh tạm nhập tái xuất và chuyển khẩu…Đặc biệt chú trọng khuyền khích đi đôi với việc quản lý các dịch vụ tái xuất, chuyển khẩu và kho ngoại quan để tận dụng ưu thế về vị trí địa lý, tăng thu ngoại tệ.

3. Xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn hàng hoá – dịch vụ xuất khẩu cho phù hợp với đòi hỏi của thị trường, nâng dần sức cạnh tranh.

4. Trong hoạt động kinh doanh xuất- nhập khẩu, kiên trì chính sách nhiều thành phần, trong đó kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo. Hạn chế dần, tiến tới xoá bỏ tình trạng độc quyền, mở rộng đầu mối kinh doanh xuất- nhập khẩu, khuyến khích kinh tế ngoài quốc doanh tham gia xuất – nhập khẩu,hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bảo đảm sự bình đẳng trong việc tiếp cận các nhân tố đầu vào (vốn, tín dụng, đất đai, lao động) cũng như trong việc nhận hỗ trợ đầu tư, kinh doanh từ phía Nhà nước.

5. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực thương mại theo hướng xoá bỏ các thủ tục phiềnn hà, và phấn đấu ổn định môi trường pháp lý để tạo tâm lý tin tưởng cho các doanh nghiệp, khuyến khích họ chấp nhận bỏ vốn đầu tư lâu dài. Phấn đấu làm cho chính sách thuế, đặc biệt là chính sách thuế xuất nhập khẩu có định hướng nhất quán để không gây khó khăn cho doanh nghiệp trong tính toán hiệu quả kinh doanh. Giảm dần, tiến tới ngừng áp dụng các lệnh cấm, lệnh ngừng nhập khẩu tạm thời. Chấm dứt tình trạng thay đổi chính sách có hiệu lực hồi tố và chấm dứt tình trạng hình sự hoá các mối quan hệ dân sự. Tăng cường tính đồng bộ của cơ chế chính sách; áp dụng thí điểm mô hình liên kết 4 bên trong xây dựng các đề án phát triển sản xuất và xuất khẩu (doanh nghiệp liên kết với trường, viện nghiên cứu, các tổ chức tài chính và các cơ quan quản lý nhà nước).

6. Tiếp cận các phương thức kinh doanh mới như buôn bán trên thị trường giao dịch hàng hoá (Commodity Exchange), trong đó có thị trường hàng hoá giao ngay và thị trường kỳ hạn (Future, Forward, Options) để vừa trực tiếp tham gia điều tiết giá quốc tế, vừa tận dụng được tính chất phòng ngừa rủi ro của các thị trường này. Từ nay đến 2010 phấn đấu hình thành thị trường giao ngay và thị trường kỳ hạn tại Việt Nam đối với 1, 2 mặt hàng xuất khẩu quan trọng (có thể lấy gạo hoặc cà phê làm thí điểm). Cần đặc biệt lưu tâm tiếp cận và phát triển thương mại điện tử, trong đó có việc tạo dựng khung pháp lý cho hình thức thương mại đặc thù này.

7. Điều hành lãi suất, tỷ giá hối đoái một cách linh hoạt để vừa bảo đảm sự ổn định kinh tế- xã hội trong nước, vừa có lợi cho xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, tiến tới biến tiền đồng Việt Nam thành chuyển đổi.

IV. VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ:

Về vấn đề này, Ban Cán sự Chính phủ đã có báo cáo riêng trình Bộ Chính trị và Bộ Chính trị sẽ có Nghị quyết riêng, do đó trong bản này chỉ xin nhấn mạnh một số biện pháp sau:

1. Tạo dựng sự nhất trí cao, quyết tâm lớn trong việc hội nhập vào nền kinh tế khu vực và quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa để giành những ưu đãi về thương mại, từ đó mở rộng thị trường, tiêu thụ sản phẩm, thúc đẩy sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao động;

2. Xây dựng một lộ trình hợp lý, phù hợp với điều kiện của ta và với cam kết quốc tế về giảm quan thuế, thuế hoá đi đôi với việc xoá bỏ hàng rào phi quan thuế, áp dụng chế độ đãi ngộ quốc gia, lịch trình bảo hộ… công bố công khai để các ngành có hướng xếp sắp sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh. Điều cấp bách là xây đựng lộ trình tổng thể tham gia AFTA, đi đôi với việc tích cực, chủ động xây dựng lộ trình đàm phán với WTO. Thể theo các lộ trình đó, có chương trình điều chỉnh, sửa đổi, xây dựng các văn bản pháp quy tương ứng;

3. Chủ động thay đổi về căn bản phương thức quản lý nhập khẩu. Tăng cường sử dụng các công cụ phi thuế “hợp lệ” như các hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, môi trường…, hạn ngạch thuế quan, thuế tuyệt đối, thuế mùa vụ, thuế chống phá giá, chống trợ cấp. Giảm dần tỷ trọng của thuế nhập khẩu trong cơ cấu nguồn thu ngân sách. Cải cách biểu thuế và cải cách công tác thu thuế để giảm dần, tiến tới xoá bỏ chế độ tính thuế theo giá tối thiểu.

4. Tích cực xúc tiến việc xếp sắp lại các doanh nghiệp, đổi mới công nghệ, phương thức quản lý để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của từng ngành hàng; công bố lộ trình rõ ràng cho việc rỡ bỏ hàng rào bảo hộ, khắc phục triệt để những bất hợp lý trong chính sách bảo hộ, cân đối lại đối tượng bảo hộ theo hướng trước hết chú trong bảo hộ nông sản.

5. Tận dụng các thể chế ưu đãi dành cho các nước đang phát triển và kém phát triển trong đàm phán song phương và đa phương, cùng các nước ĐPT đấu tranh cho lợi ích của các nước nghèo. Nắm bắt và tận dụng xu thế “khu vực hoá” để bắt tay với từng thị trường (hoặc khu vực thị trường) riêng lẻ, vừa tạo thị trường xuất khẩu ổn định, vừa làm quen dần với hội nhập kinh tế toàn cầu (WTO).

6. Nhà nước tăng cường phổ biến kiến thức cho xã hội về hội nhập các doanh nghiệp chủ động tích cực tìm hiểu để tận dụng những thuận lợi mới do quá trình hội nhập đem lai đồng thời ứng phó thắng lợi với những thách thức nảy sinh.

V. VỀ ĐÀO TẠO CÁN BỘ:

Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới và khu vực (như Nhật Bản, Singapore…) cho thấy công tác đào tạo là một trong những nhân tố quyết định thành công đối với sự phát triển của đất nước. Ngày nay nhân tố này lại càng có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh nền kinh tế tri thức đang hình thành và ảnh hưởng sâu rộng tới tư duy quản lý, tư duy kinh tế và phương thức sản xuất, kinh doanh. Vì vậy để thực hiện thành công những mục tiêu chiến lược đã đề ra, vấn đề tạo dựng được một đội ngũ cán bộ, doanh nhân có năng lực và một đội ngũ công nhân lành nghề tham gia công tác xuất nhập khẩu đóng vai trò hết sức quan trọng.

Có thể nói tư duy kinh doanh, nghiệp vụ và phương thức kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung mới ở trình độ thấp, có khoảng cách khá xa so với trình độ thế giới. Hơn thế nữa, với mục tiêu chiến lược là tăng trưởng xấp xỉ 14% năm thì nhu cầu về công nhân lành nghề (may mặc, lắp ráp điện tử, cơ khí…) sẽ rất lớn. Cứ xuất khẩu 1 tỷ USD hàng may mặc hoặc giày dép thì cần tới 300.000-400.000 công nhân, cứ xuất khẩu 1 triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ thì cần thêm 3000-4000 công nhân… Vì vậy, song song với việc đào tạo một đội ngũ cán bộ, đội ngũ doanh nhân có năng lực phải chú trọng tạo dựng một đội ngũ công nhân đủ về số lượng, thạo về tay nghề để thực hiện chiến lược xuất nhập khẩu.

Nhà nước cần nghiên cứu tổ chức những lớp đào tạo và bồi dưỡng giám đốc để hình thành dần đội ngũ doanh nhân có năng lực, có khả năng xử lý linh hoạt, đồng thời cần có chính sách khuyến khích doanh nhân giỏi, đặc biệt là trong khu vực doanh nghiệp nhà nước. Nếu cần, có thể xem xét lại chế độ tiền lương cho người đứng đầu các doanh nghiệp Nhà nước.

VI. TỔ CHỨC THỰC HIỆN:

Để thực hiện thành công những mục tiêu chiến lược đã đề ra, cần tiến hành các biện pháp sau:

1. Tham khảo bản chiến lược này đã được Chính phủ thông qua, đề nghị các Bộ, ngành và các địa phương sớm hình thành chiến ược phát triển xuất khẩu của ngành và địa phương mình.

2. Tăng cường và làm sáng rõ hơn trách nhiệm và mối quan hệ phối hợp giữa các Bộ và các địa phương trong các khâu quy hoạch, tổ chức sản xuất, tổ chức tiêu thụ. Xem xét khả năng xây dựng một số chương trình xuất khẩu trọng điểm với sự tham gia của các bộ, ngành, địa phương hữu quan với một cơ quan chỉ đạo tập trung. Tăng cường quan hệ hợp tác, phối hợp giữa các Bộ với các tổ chức đại diện doanh nghiệp (như Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các Hiệp hội ngành hàng…).

3. Giao Bộ Thương mại phối hợp với các bộ ngành hữu quan xây dựng đề án cải tiến một cách cơ bản và tăng cường mạnh mẽ công tác thông tin dự báo và thông tin thị trường để giúp các cơ quan nhà nước xây dựng quy hoạch, hình thành chính sách, điều hành, các doanh nghiệp kinh doanh, trong đó có việc hiện đại hóa hệ thống thông tin thương mại trong cả nước.

4. Củng cố hệ thống xúc tiến thương mại (ở cả Trung ương và địa phương), trong đó có việc hình thành và phát triển Cục Xúc tiến Thương mại, cơ quan chịu trách nhiệm xây dựng khung pháp lý và thực hiện sự quản lý nhà nước, điều hòa, phối hợp công tác xúc tiến thương mại trong cả nước. Từng bước hình thành các trung tâm thương mại Việt Nam ở nước ngoài. Ban hành quy chế thưởng cho các cá nhân, doanh nghiệp mở rộng được thị trường, tìm thêm được đối tác. Tạo điều kiện và hỗ trợ cho các doanh nghiẹp đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt trong việc thành lập các trung tâm thương mại, kho ngoại quan… để giới thiệu, đưa nguyên liệu, hàng hóa sang và tổ chức sản xuất hàng hóa xuất khẩu ngay tại thị trường đó.

5. Mở rộng việc hình thành và củng cố vai trò của các hiệp hội ngành hàng để tăng cường tính tổ chức và tính tập thể trong môi trường cạnh tranh. Khắc phục xu hướng “quốc doanh hóa hiệp hội”, khẳng định nguyên tắc cơ bản của các hiệp hội là nguyên tắc”mở”, quy tụ tất cả các doanh nghiệp có chung quyền lợi, bất kể thành phần kinh tế, bất kể quy mô. Khuyến khích các hiệp hội tự thành lập quỹ phòng ngừa rủi ro và tham gia các hiệp hội ngành hàng quốc tế để phối hợp hành động, ổn định giá cả.

6. Sớm hoàn thiện Quỹ Hỗ trợ tín dụng Xuất khẩu theo đúng các tiêu chí của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (1998) để trợ giúp các doanh nghiệp có tiềm năng thông qua việc cấp tín dụng với lãi suất ưu đãi, bảo lãnh tiền vay và cấp tín dụng qua việc cấp tín dụng với lãi suất ưu đãi, bảo lãnh tiền vay và cấp tín dụng xuất khẩu cho người mua nước ngoài, tiến tới thành lập Ngân hàng Xuất Nhập khẩu. Nghiên cứu thành lậpQuỹ hoặc Công ty Bảo hiểm Xuất khẩu để bảo hiểm rủi ro thanh toán khi tiếp cận các thị trường mới. Khuyến khích các hiệp hội ngành hàng tự hình thành các quỹ bảo hiểm đề phòng rủi ro, kể cả trong trường hợp giá thị trường thế giới biến động. Nhà nước có chính sách thưởng cho các doanh nghiệp, cá nhân làm tốt công tác xuất khẩu.

7. Thiết kế mạng lưới các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài, kể cả Tham tán thương mại phục vụ thiết thực cho việc mở rộng quan hệ kinh tế và thị trường tiêu thụ sản phẩm, tăng cường trách nhiệm của các bộ phận đó đối với việc cung cấp thông tin, hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm bạn hàng. Khuyến khích và hỗ trợ cho các doanh nghiệp mở văn phòng đại diện ởbên ngoài để tiếp thị, xúc tiến xuất khẩu.

8. Giao Bộ Thương mại cùng Uỷ ban công tác người Việt ở nước ngoài hình thành mạng lưới người Việt sinh sống ở nước ngoài làm đại lý tiêu thụ hàng hóa cho Việt Nam.

9. Giao Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan lập chương trình đào tạo cán bộ, công nhân lành nghề phục vụ cho hoạt động xuất – nhập khẩu thời gian tới.

10. Giao Bộ Thương mại giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo việc triển khai Chiến lược Phát triển Xuất – nhập khẩu theo hướng:

– Các bộ ngành sản xuất cần phối hợp với Bộ Kế hoạch – Đầu tư, BộThương mại xây dựng các chương trình, kế hoạch xuất khẩu, nhất là đối với các mặt hàng chủ lực, từ khâu sản xuất tới khâu tiêu thụ; hướng dẫn, hỗ trợ các nhà sản xuất thực hiện;

– Bộ thương mại cùng Bộ Tư pháp có chương trình xây dựng các văn bản pháp quy để trìnhThủ tướng Chính phủ hoặc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét;

– Các Bộ, ngành thành viên Uỷ ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tếQuốc tế, dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Uỷ ban, sớm hoàn tất việc xây dựng lộ trình hội nhập quốc tế trình Chính phủ thông qua;

– Các Bộ Tài chính, Kế hoạch – Đầu tư, Thương mại, Ngân hàng Nhà nước xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách về tài chính, tín dụng nhằm khuyến khích xuất khẩu;

– Bộ Thương mại chủ trì xây dựng các đề án triển khai các chủ trương nêu trong Chiến lược nhằm hoàn thiện, đối mới hoạt động, kinh doanh xuất – nhập khẩu trình Thủ tướng Chính phủ.

Đang cập nhật

Đang cập nhật

Đang cập nhật

Đang cập nhật

Đồng ý nhận thông tin từ BePro.vn qua Email và Số điện thoại bạn đã cung cấp

Nếu bạn không tải về được vui lòng bấm vào đây để tải về.
BePro.vn sẽ thường xuyên cập nhật các văn bản pháp luật mới nhất, hãy luôn theo dõi thuvienluat.bepro.vn nhé!
Xin cảm ơn.

Reviews

There are no reviews yet.

Be the first to review “Công văn 3936/TM-XNK của Bộ Thương mại về việc triển khai Chiến lược phát triển xuất – nhập khẩu thời kỳ 2001-2010”